Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2024 và định hướng năm 2025
Tóm tắt
Năm 2024, kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm: căng thẳng địa chính trị, xu hướng tăng lãi suất ở các nền kinh tế lớn, tăng trưởng chậm lại của các đối tác thương mại quan trọng và tác động từ thiên. Trong bối cảnh đó, thực trạng tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã cho thấy sự kiên cường, vững vàng, sẵn sàng vượt sóng để trở thành một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng tích cực của thế giới. Tuy nhiên, nền kinh tế năm 2024 còn nhiều bất cập. Bài viết, theo quan điểm nghiên cứu, đề cập đến những phân tích nhận định, đánh giá về bức tranh tăng trưởng kinh tế Việt Nam trên cả hai mặt nói trên. Từ đó, định hướng một bức tranh vừa phản ánh hiện thực, nhưng tươi sáng hơn cho năm 2025 với một số khuyến nghị chủ yếu tập trung vào khắc phục những hạn chế nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, thúc đẩy sự phát triển thị trường trong nước, phục hồi nhanh hơn những trao đổi hợp tác quốc tế dựa trên lợi thế của nền kinh tế mở.
Từ khóa: tăng trưởng, định hướng, ngành công nghiệp chế biến chế tạo, nông nghiệp bền vững, thương mại điện tử, tiêu dùng nội địa, thị trường quốc tế.
Summary
In 2024, Vietnam's economy faces many challenges, including geopolitical tensions, rising interest rates in major economies, slowing growth of significant trading partners, and natural impacts. In that context, Vietnam's economic growth has shown resilience, steadfastness, and readiness to overcome the waves to become one of the economies with a positive growth rate worldwide. However, the economy in 2024 still has many shortcomings. From a research perspective, this article discusses the analysis, comments, and assessments of Vietnam's economic growth picture regarding the two above aspects. From there, it orients a picture reflecting reality but brighter for 2025 with several recommendations focusing mainly on overcoming limitations to improve production efficiency, promote domestic market development, and restore international cooperation exchanges faster based on the advantages of an open economy.
Keywords: growth, orientation, manufacturing industry, sustainable agriculture, e-commerce, domestic consumption, international market.
4 THÀNH QUẢ ĐÁNG GHI NHẬN NĂM 2024
1. Việt Nam nằm trong nhóm nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất
Năm 2024, phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam diễn ra trong bối cảnh bất lợi cả từ bên ngoài (quốc tế, khu vực trên nhiều linh vực cả kinh tế, chính trị, quân sự) và bên trong (những khó khăn lớn của một nền kinh tế mở phụ thuộc bởi bên ngoài), có ảnh hưởng tiêu cực đến chuỗi cung ứng, giá cả, an ninh năng lượng, an ninh lương thực bị đe doạ. Tuy vậy, Việt Nam đạt được kết quả tăng trưởng kinh tế rất đáng trân trọng. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2024 có thể cán đích 7% (vượt mục tiêu Quốc hội đặt ra từ 6,5-7%) và vượt xa năm 2023 (chỉ đạt 5,05% - theo báo cáo Tổng cục Thống kê) và có xu hướng tăng dần theo thời gian, quý IV dự kiến đạt từ 7,4%-7,6% (tăng xấp xỉ 10% so với cùng kỳ 2023) và cao nhất so với quý III, II và quý I (tương ứng đạt 5,87%; 7,09% và, 7,4%). Với thành quả như vậy, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực Đông Á - Thái Bình Dương (theo nhận định của WB) và đã trở lại là “ngôi sao tăng trưởng” của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (theo HSBC), vượt qua Philippines – quốc gia giữ vị trí số 1 vào năm 2023.
Hình 1: Tốc độ tăng trưởng GDP của một số quốc gia Đông Nam Á năm 2023, 2024
Đơn vị: %
![]() |
Nguồn: HSBC (2024) |
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2024 và triển khai nhiệm vụ năm 2025 của ngành Kế hoạch và Đầu tư (ngày 28/12/2024), kết thúc năm 2024, Việt Nam không chỉ hoàn thành kế hoạch tăng trưởng GDP đạt 7%, mà còn có khả năng hoàn thành 15/15 chỉ tiêu chủ yếu. Những con số này phản ánh sự phục hồi và phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của đất nước trong khu vực và trên thế giới. Những dấu ấn nổi bật của nền kinh tế là kết quả của những cải thiện đáng kể và có hiệu quả của các chính sách tài khóa linh hoạt, chính sách tiền tệ ổn định và môi trường đầu tư cải thiện đáng kể.
Kết quả tăng trưởng nhanh không chỉ là minh chứng cho khả năng thích nghi và phát triển của Việt Nam, mà còn là động lực để tiếp tục vươn xa hơn trong tương lai. Năm 2024 là minh chứng rõ nét cho việc Việt Nam không chỉ phục hồi mà còn bứt phá, sẵn sàng đối mặt với các thách thức để hướng tới một nền kinh tế bền vững và hội nhập sâu rộng. Kết quả tăng trưởng kinh tế đã dẫn đến Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp. Các lĩnh vực chủ yếu đều tăng trưởng tốt. Công nghiệp phục hồi tích cực, là động lực quan trọng, dẫn dắt tăng trưởng. Dịch vụ duy trì đà phục hồi tốt; thương mại điện tử, du lịch phát triển mạnh. Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng khá; phát triển mô hình nông nghiệp sinh thái, hữu cơ và công nghệ cao.
2. Ngành công nghiệp đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong giai đoạn từ 2020 đến nay
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP ngành công nghiệp Việt Nam năm giai đoạn 2020-2024
Đơn vị: %
Năm | 2020 | 2021 | 2022 | 2023 | 2024 |
Nền kinh tế | 2,87 | 2,55 | 8,12 | 5,05 | 7,0 |
Ngành CN | 3,77 | 4,06 | 7,79 | 3,02 | 8,4 |
CN CBCT | 4,99 | 5,37 | 8,19 | 3,62 | 9,7 |
Nguồn: Báo cáo Tổng cục thống kê các năm
Với tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong giai đoạn 2020-2024, quy mô sản xuất công nghiệp phục hồi nhanh, trên diện rộng và liên tục được mở rộng, giữ vai trò động lực, dẫn dắt tăng trưởng chung của nền kinh tế. Cơ cấu ngành công nghiệp chuyển dịch tích cực theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành động lực tăng trưởng của toàn ngành và toàn nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực này đã tận dụng hiệu quả các cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là CPTPP và EVFTA, để mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao năng lực sản xuất. Các ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế tiếp tục phát triển, như: khai thác, chế biến dầu khí; khai thác, chế biến khoáng sản, điện, điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin; luyện kim, sắt thép; xi măng và vật liệu xây dựng; dệt may, da giày; cơ khí chế biến chế tạo, ô tô, xe máy..., tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn, cũng như thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Ngành du lịch và thương mại điện tử phát triển mạnh
Trên cơ sở các chủ trương của Đảng, định hướng của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam, nhiều hoạt động du lịch lớn đã được tổ chức ở trong nước và quốc tế. Kết quả, ngành Du lịch đã đạt được nhiều chỉ tiêu ấn tượng về lượt khách và doanh thu, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương và tăng trưởng của Việt Nam. Ngành du lịch Việt Nam năm 2024 đã đạt được nhiều con số ấn tượng, tăng trưởng đáng kể so với cùng kỳ năm 2023, như: khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt gần 17,5 triệu lượt (tăng 38,9%); khách nội địa ước đạt 110 triệu lượt, tăng 1,6% so với năm 2023; tổng thu từ khách du lịch ước đạt khoảng 840.000 tỷ đồng (tăng 23,8%). Đây là động lực quan trọng góp phần thúc đẩy chi tiêu nội địa và phát triển các ngành dịch vụ liên quan. hoạt động du lịch trên phạm vi cả nước tiếp tục duy trì được đà phục hồi và tăng tốc phát triển.
Số lượng khách du lịch nội địa vẫn duy trì tốc độ phát triển, số lượng khách quốc tế tăng cao ở nhiều điểm đến. Kết quả khách quốc tế tăng cao chứng tỏ hướng đi đúng, kịp thời của du lịch Việt Nam trong cơ cấu lại thị trường khách, định hướng làm mới sản phẩm, công tác xúc tiến, quảng bá hiệu quả cả trên thực địa và trên các nền tảng số cùng hiệu ứng tích cực từ chính sách thị thực mới, trong đó có những đóng góp của cơ quan Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam. Với đà này, năm 2025, ngành Du lịch đặt mục tiêu phục hồi hoàn toàn như trước dịch Covid-19; phấn đấu đón 22-23 triệu lượt khách quốc tế, 120-130 triệu lượt khách nội địa và duy trì tốc độ tăng trưởng khách nội địa 8%-9% mỗi năm.
Cùng với du lịch, ngành thương mại điện tử và kinh tế số của Việt nam đạt tăng trưởng trong nhóm số 1 thế giới đã góp phần quan trọng vào tăng trưởn chung toàn nền kinh tế. Theo báo cáo của Bộ Công Thương (Hình 2), năm 2024, tăng trưởng thương mại điện tử bán lẻ 20% so với năm 2023 chiếm tới 7,5%, doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng cả nước. số lượng người tiêu dùng tham gia mua sắm trực tuyến là trên 54,6 triệu người, giá trị mua sắm trực tuyến của một người đạt gần 300 USD/năm. Số liệu của Công ty Nghiên cứu thị trường Statista (Đức) cho biết tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử của Việt Nam được xếp vào nhóm 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử hàng đầu thế giới và công ty này đã dự báo đến năm 2025, doanh thu bán hàng trực tuyến sẽ chiếm khoảng 10% tổng doanh thu bán lẻ của Việt Nam. Thương mại điện tử đã khẳng định được là một trong những lĩnh vực tiên phong của nền kinh tế số, tạo động lực phát triển kinh tế. Tăng trưởng của thương mại điện tử nhiều năm qua cho thấy, xu hướng tiêu dùng đã có sự thay đổi, khả năng tiếp cận và ứng dụng công nghệ thông tin của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.
Hình 2: Doanh thu thương mại điện tử Việt Nam
Đơn vị: Tỷ USD
![]() |
Nguồn: Báo cáo Bộ Công Thương, 2024 |
4. Hoạt động xuất nhập khẩu đã chính thức xác lập kỷ lục mới
Hình 3: Tổng kim ngạch xuất - nhập nhẩu của Việt Nam 2020-2024
Đơn vị: Tỷ USD
![]() |
Nguồn: Báo cáo của Tổng cục Hải quan |
Xuất, nhập khẩu là điểm sáng nổi bật và là một trong những động lực chính của tăng trưởng kinh tế, với tổng kim ngạch cả năm đạt kỷ lục mới (đạt 786, 07 tỷ USD), tăng 15,4% so với năm trước và vượt gần 3 lần kế hoạch được giao (Hình 3). Đây là số kim ngạch xuất nhập khẩu cao nhất từ trước đến nay.
Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cao ở mức 2con số với sự phục hồi tích cực của các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực: Xuất khẩu ước đạt 403 tỷ USD (vượt xa mức 354,7 tỷ USD của cả năm 2023), tăng 13,6% so với năm 2023, đây là mức tăng trưởng khá cao so với nhiều nước trong khu vực ASEAN và châu Á. Đáng nói, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo chiều hướng tích cực, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Nông sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong năm 2024 và mặt hàng này cũng lần đầu tiên đạt con số 62 tỷ USD, tăng trên 18% so năm 2023, với 11 mặt hàng tiếp tục duy trì giá trị kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Xuất khẩu sang hầu hết các khu vực thị trường tăng trưởng tốt, đặc biệt là các thị trường có ký kết hiệp định thương mại tự do (FTA) với Việt Nam. Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm gần 30% tổng kim ngạch, tăng mạnh nhờ nhu cầu hồi phục. Các thị trường lớn khác như Trung Quốc, EU cũng duy trì mức tăng trưởng khả quan. Năm 2024 cũng là năm thứ 9 Việt Nam ghi nhận xuất siêu, đây là một trong những cấu phần quan trọng để quyết định tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Với nỗ lực của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là của các doanh nghiệp, hộ nông dân…, đã đóng góp vào việc nâng cao tổng cầu của nền kinh tế thông qua con số xuất siêu này.
3 HẠN CHẾ CẦN ĐƯỢC NHÌN NHẬN MỘT CÁCH SÂU SẮC
1. Ngành nông nghiệp mặc dù vẫn là bệ đỡ cho nền kinh tế, nhưng có xu hướng tăng trưởng chậm lại
Trải qua năm 2024, ngành nông nghiệp Việt Nam đối diện với không ít thách thức và thực hiện nhiệm vụ trong điều kiện có nhiều khó khăn, thách thức, trong đó có yếu tố tác động mạnh của biến động thị trường, của thời tiết nắng nóng gay gắt, hạn hán, mưa bão tại các địa phương vùng Tây Nguyên, miền trung, xâm nhập mặn tại các tỉnh, thành phố phía nam, bão số 3 (Yagi)… Vì thế, nhìn vào bức tranh chung của nền kinh tế, có thể thấy thấy rõ khu vực nông – lâm – thủy sản tăng trưởng thấp hơn, và thấp hơn so với những năm gần đây. Tăng trưởng GDP khu vực nông – lâm – thủy sản ước đạt khoảng 3,3%, con số này thấp hơn so với các năm 2022 và 2023 (lần lượt đạt 3,36 và 3,88). Đặc biệt, do ảnh hưởng của bão số 3 đổ bộ trong tháng Chín, quý III/2024 tăng trưởng khu vực nông lâm thủy sản chỉ đạt 2,58%, giảm 0,97 điểm % so với kịch bản và là mức tăng thấp nhất của quý III các năm 2020-2024 (ngoại trừ năm 2021 bị ảnh hưởng dịch Covid-19 và dịch tả lợn châu Phi); 9 tháng năm 2024 tăng 3,2%, thấp hơn 0,25 điểm % so với kịch bản và cũng chỉ cao hơn tốc độ tăng của cùng kỳ năm 2020 trong giai đoạn 2020-2024.
Một số lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng âm hoặc tăng trường thấp hơn mức trung bình, như: cả nước thu hoạch được 1.403,4 nghìn ha lúa mùa, chỉ bằng 95,7% cùng kỳ năm trước; Tổng đàn trâu giảm 3,1% so với cùng thời điểm năm 2023; Tổng đàn bò giảm 0,4%; Tổng đàn gia cầm chỉ tăng 2,9%. Trong ngành lâm nghiệp: diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 263,9 nghìn ha, chỉ tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước. Ngành thủy hải sản, tính chung năm 2024, sản lượng thủy sản ước chỉ tăng khoảng 2,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, sản lượng thủy sản khai thác ước chỉ tăng 0,7%, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng chung của ngành.
2. Xuất - nhập khẩu ở khu vực FDI cũng có biểu hiện tăng trưởng chậm hơn khu vực kinh tế trong nước
Theo số liệu ước thực hiện, tốc độ tăng trưởng tổng kim ngạch xuát nhập khẩu của Việt Nam dự báo đạt 15,5%, trong khi đó khu vự kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chỉ đạt 14,2%; còn khu vực kinh tế trong nước là 18,7%. Xu hướng này thể hiện cả trong xuất khẩu và nhập khẩu. Xuất khẩu năm 2024 đạt 14,4%; khu vực trong nước 20% và FDI 12,4%. Một số sản phẩm xuất khẩu chủ yếu từ các doanh nghiệp FDI có tốc độ tăng trưởng rất thấp như: điện thọai và điện tử: 3,2%; dệt may 10,6%; giày dép: 12,9%. Ở chiều ngược lại, nhập khẩu của doanh nghiệp trong nước cũng tăng cao hơn so với doanh nghiệp FDI. Số liệu của Tổng cục hải quan cho thấy, bình quân kim ngạch nhập khẩu năm 2024 tăng 16,4%, trong đó khu vực FDI chỉ đạt 15,2% so với khu vực kinh tế trong nước 18,5%. Các doanh nghiệp FDI thuộc ngành ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, như: dệt may, giầy da, ngành điện, điện tử, sản xuất ô tô, xe máy, trong năm 2024 luôn gặp những khó khăn, nhất là khó khăn do sự thu hẹp của thị trường quốc tế: Đối với nhóm ngành dệt, may, da giầy, có tới 54,6% doanh nghiệp sản xuất trang phục; 54,7% doanh nghiệp sản xuất da và các sản phẩm có liên quan và 45,6% doanh nghiệp dệt gặp khó khăn do nhu cầu thị trường quốc tế thấp. Nhóm ngành điện, điện tử dù có sự phục hồi rất tích cực, nhưng khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp vẫn đến từ nhu cầu thị trường quốc tế thấp, với 55,1% doanh nghiệp sản xuất thiết bị điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học và 44,7% doanh nghiệp sản xuất thiết bị điện gặp khó khăn do nhu cầu thị trường quốc tế thấp. Tương tự là các doanh nghiệp FDI nhóm ngành sản xuất ô tô, xe máy, có 40,0% doanh nghiệp sản xuất ô tô gặp khó khăn do thị trường quốc tế thấp.
3. Các động lực tăng trưởng cả ở phía cung và phía cầu đều có những xu hướng phát triển không tích cực
Năm 2024 chứng kiến sự suy giảm khá nghiêm trọng của các động lực tăng trưởng. Cụ thể:
(i) Chỉ số quản trị mua hàng (PMI) suy giảm. Trong tháng 12/2024 đã giảm xuống dưới ngưỡng 50 điểm lần đầu tiên trong ba tháng khi đạt 49,8 điểm so với 50,8 điểm của tháng 11.
(ii) Hoạt động doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, tỷ lệ doanh nghiệp rút lui so với doanh nghiệp gia nhập thị trường vẫn ở xu hướng cao. Năm 2024, cả nước có gần 71.300 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 28,5% so với cùng kỳ năm 2023. Bình quân một tháng có gần 19.900 doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Trong khi đó có 173.179 doanh nghiệp đã rút lui khỏi thị trường, dù một nửa trong số này chọn hình thức tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn. Đáng nói là, số doanh nghiệp giải thể tăng 19,8% so với cùng kỳ năm 2023, có mặt ở 14/17 ngành kinh doanh chính. Đây là các doanh nghiệp hoàn toàn chấm dứt tồn tại trên thị trường. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, trước tình hình kinh tế trong nước và trên thế giới còn nhiều khó khăn, nhu cầu thị trường chưa có sự phục hồi mạnh mẽ, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, tìm kiếm đối tác, đơn hàng
(iii) Tiêu dùng trong nước và giải ngân đầu tư công chưa đạt được như kỳ vọng
- Đối với tiêu cùng trong nước: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng này thấp hơn 2,7 điểm % so với mức tăng bình quân 10 tháng các năm giai đoạn trước dịch phản ánh cầu tiêu dùng trong nước phục hồi, nhưng chưa cao. Còn doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống; du lịch lữ hành và các dịch vụ xã hội khác (như: vui chơi, giải trí…) chiếm tỷ trọng 22,8%, giảm 1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2019 (24,1%). Điều này phản ánh tiêu dùng của người dân, chi tiêu tiết kiệm hơn (sau dịch), mặc dù nhu cầu tiêu dùng hồi phục, nhưng chưa cao so với thời điểm trước dịch và trong dịch; cơ cấu tiêu dùng cho các dịch vụ xã hội có xu hướng giảm dần”, bà Phương nêu rõ.
- Đối với giải ngân vốn: Báo cáo của Bộ Tài chính cho biết, giải ngân vốn ngân sách nhà nước (NSNN) kế hoạch các năm trước kéo dài sang năm 2024 từ đầu năm đến ngày 31/12/2024 là hơn 38.605 tỷ đồng, đạt 67,38% kế hoạch; ước giải ngân vốn kế hoạch năm 2024 là hơn 529.632 tỷ đồng, đạt 70,24% kế hoạch, đạt 77,55% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (cùng kỳ năm 2023 đạt 73,5% kế hoạch và đạt 81,87% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao). Năm 2024, có tới 30 bộ, cơ quan trung ương và 26 địa phương có tỷ lệ ước giải ngân thấp hơn bình quân chung của cả nước. Đặc biệt, báo cáo của Bộ Tài chính cho biết, việc địa phương có kế hoạch lớn như TP. Hồ Chí Minh (được giao 79.263,78 tỷ đồng, chiếm 11,8% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao cả nước), nhưng chỉ mới giải ngân 51,08% đã ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ giải ngân chung của cả nước.
ĐỊNH HƯỚNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ NĂM 2025
Các căn cứ đưa ra định hướng mục tiêu tăng trưởng năm 2025
Định hướng mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023, được bài viết dựa trên những căn cứ sau đây:
Một là, dự báo của một số tổ chức quốc tế
Bảng 2: Tổng hợp các dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2025
Các tổ chức | Dự báo | Điều kiện thực hiện |
Ngân hàng Thế giới (WB) | 6,5 % | đẩy mạnh đầu tư công, cải thiện xây dựng hạ tầng để thu hút đầu tư tư nhân và đa dạng hóa thương mại |
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) | 6,1% | Tiếp tục thận trọng trong điều hành chính sách tiền tệ và tăng sức chống chịu của hệ thống tài chính, ngăn ngùa và qunr lý các khủng hoảng ngân hàng |
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) | 6,6%
| Hoạt động thương mại mạnh hơn dự kiến, sản xuất chế biến chế tạo hàng xuất khẩu phục hồi mạnh mẽ, đẩy mạnh đầu tư công và những chính sách hỗ trợ tài khóa và tiền tệ |
Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc UNDP | 6,7% | thực hiện các thay đổi then chốt trong chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó cần có các chính sách để tạo điều kiện khuyến khích đầu tư công và tư. |
Ngân hàng HSBC | 6,5% | Lực cầu nội địa và quốc tế tăng lên và trong bối cảnh sản xuất, xuất khẩu thuận lợi. |
Nguồn: WB, IMF, ADB, UNDP, HSBC
Hai là, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025
Tại kỳ họp thứ 8, ngày 12/11/2024, Quốc hội khóa XV đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, theo đó các chỉ tiêu chủ yếu gồm: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 7-7,5%; GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.900 đô la Mỹ (USD). Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 24,1%. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4,5%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân khoảng 5,3%-5,4%. Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt 25%-26%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70%, trong đó có bằng, chứng chỉ đạt khoảng 29%-29,5%. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%. Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều) giảm trên 0,8%-1%. Để đạt được mục tiêu trên, N5hị quyết quốc hội đã nêu rõ điêu kiện cần là: Tập trung thực hiện hiệu quả, thực chất cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng cường năng lực nội sinh, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển nhanh, bền vững; đẩy mạnh phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thương mại điện tử, các ngành, lĩnh vực mới nổi, các mô hình kinh doanh mới, hiệu quả; Thu hút có chọn lọc các dự án đầu tư nước ngoài, nhất là trong những ngành, lĩnh vực mới nổi gắn kết chặt chẽ với thị trường trong nước và các doanh nghiệp trong nước, tham gia sâu rộng hơn vào các chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu
Ba là, những thông tin từ phía doanh nghiệp
Cộng đồng doanh nghiệp nhận định còn nhiều rủi ro và thách thức có thể ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng của doanh nghiệp. Do đó, cần những bước đi chiến lược và triển khai các giải pháp phù hợp để kích thích và tận dụng cơ hội, vững vàng vượt đích. Theo đánh giá của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, tỷ lệ doanh nghiệp gia nhập trên số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường dù nhích lên so với đầu năm, nhưng vẫn còn thấp so với thời điểm dịch bệnh bùng phát cao điểm tại Việt Nam (2021-2022). Những khó khăn của doanh nghiệp vào thời điểm này không chỉ là tín hiệu khó lường đang xuất hiện nhiều hơn từ thị trường thế giới, về sự khó khăn của khu vực sản xuất trong nước. Đó còn là khó khăn từ những lo ngại về khả năng xáo trộn, chậm trễ, thậm chí ngưng trệ công việc do những thay đổi trong giai đoạn sắp xếp, tinh giản bộ máy. Trước tình hình kinh tế trong nước và trên thế giới còn nhiều khó khăn, nhu cầu thị trường chưa có sự phục hồi mạnh mẽ, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, tìm kiếm đối tác, đơn hàng. Chính vì vậy, việc tổ chức các hoạt động kết nối giao thương, hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường, tìm kiếm đơn hàng, đối tác là hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong thời điểm hiện nay
Đề xuất mục tiêu tăng trưởng năm 2025
Dựa trên các căn cứ nói trên, bài viết đề xuất mục tiêu tăng trưởng năm 2025 là 6,5%-7%, nếu điều kiện thuận lợi hơn có thể đạt 7,5%. Con số này phù hợp với những dự báo tích cực trong tăng trưởng GDP của Việt Nam của một số tổ chức quốc tế (WB, UNDP), phù hợp với cận dưới của Kế hoạch 2025 được Quốc hội phê duyệt, nếu điều kiện thuận lwoj có thể đạt được mức cận trên của kế hoạch được phê duyệt, đồng thời còn thể hiện vai trò của năm cuối của việc đạt được chỉ tiêu tăng trưởng đặt ra trong kế hoạch 5 năm 2021-2025. Tuy vậy, mục tiêu này đạt được kèm theo những giải pháp tích cực.
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
Thứ nhất, tăng cường chính sách phát triển nông nghiệp bền vững
Giải pháp này nhằm giải quyết những biểu hiện suy giảm tăng trưởng ngành nông nghiệp năm 2024, hướng tơi một nền nông nghiệp bền vững, hiệu quả. Kế hoạch Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt ra cho năm 2025: Tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành 3,3%-3,4%; tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 64-65 tỷ USD; tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới trên 80%; tỷ lệ che phủ rừng duy trì ổn định 42,02%; tỷ lệ hộ gia đình nông thôn được sử dụng nước sạch theo quy chuẩn 60%. Để đạt được những mục tiêu đề ra, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn cần: (i) Tập trung đẩy mạnh cơ cấu lại ngành, nâng cao năng suất, chất lượng hàng nông sản và hiệu quả sản xuất, kinh doanh; (ii) Phát triển mạnh thị trường tiêu thụ nông lâm thủy sản, tăng cường hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị toàn cầu; (iii) Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học công nghệ cao, công nghệ sạch; thực hiện hiệu quả.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về "Thích ứng linh hoạt - Khơi thông nguồn lực - Tăng tốc bứt phá", nhất là trong bối cảnh hoàn thành Kế hoạch phát triển ngành 5 năm 2021 - 2025 và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngành Nông nghiệp sẽ tiếp tục tập trung thực hiện việc chuyển đổi mạnh tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh cơ cấu lại ngành theo hướng phát triển nông nghiệp sinh thái, xanh, tuần hoàn gắn với xây dựng nông thôn mới hiện đại... để gia tăng xuất khẩu, tận dụng tốt cơ hội từ các FTA: EVFTA, CTPPP, cho hàng nông sản Việt Nam.
Thứ hai, triển khai hiệu quả các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu đồng bộ cả khu vực trong nước và đặc biệt là khu vực FDI
Là nền kinh tế có độ mở lớn với nhiều ngành hàng hội nhập từ sớm, các doanh nghiệp đã có thêm khá nhiều kinh nghiệm ứng phó với các giai đoạn khó khăn ở cả bên trong lẫn bên ngoài. Để khắc phục tình trạng suy giảm xuất khẩu, Bộ Công Thương cần tiếp tục đẩy mạnh đàm phán, ký kết các hiệp định, cam kết, liên kết thương mại mới, ký kết các FTA với các đối tác còn nhiều tiền năng để đa dạng hóa thị trường, sản phẩm và chuỗi cung ứng. Để thực hiện đồng bộ nội dung trên, Bộ Công Thương cho rằng: (i) Các bộ, ngành tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp và thương mại đồng bộ từ Trung ương đến địa phương; (ii) Tiếp tục mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, hướng đến các thị trường mới, thị trường còn tiềm năng; (iii) Đổi mới và tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics, qua đó giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu; (iv) Tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh; (v) Chủ động phối hợp xử lý công việc gắn với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi hoạt động.
Thứ ba, tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
Theo đó, cần kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc doanh nghiệp, hỗ trợ hiệu quả các doanh nghiệp thiếu vốn, giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, có giải pháp hỗ trợ một số ngành, lĩnh vực chịu tác động bất lợi do nhu cầu của thị trường thế giới suy giảm như: da giày, dệt may, sản xuất và chế biến gỗ.
Đối với khu vực sản xuất trong nước, Chính phủ cần hỗ trợ các lĩnh vực sản xuất có thể chiếm lĩnh được các thị trường nội địa, qua đó thúc đẩy ngành dịch vụ, bán buôn bán lẻ trong nước sôi động hơn. Sự phục hồi của sản xuất mới là động lực chính của tăng trưởng năm 2025 và những năm sắp tới. Tuy vậy, cũng cần phải lưu ý trong quá trình hỗ trợ doanh nghiệp, phải chú ý đến tình trạng nợ xấu của doanh nghiệp hiện tại quá cao nếu không, nền kinh tế luôn luôn bị đe dọa bởi khủng hoảng nợ và tăng trưởng chậm. Tình trạng giải quyết nợ doanh nghiệp quá cao rất phức tạp vì cách giải quyết nào cũng có cái giá phải trả. Để tránh hệu ứng xấu, về nguyên lý cũng như theo kinh nghiệm của một số nước thành công, một mặt đẩy mạnh thanh lý/tái cấu trúc nợ xấu doanh nghiệp vừa phải mà nền kinh tế, xã hội có thể chịu được Đồng thời, cần có giải pháp kích cầu và yểm trợ có chọn lọc để đảm bảo tăng trưởng tối thiểu và đối phó với cái giá phải trả là tình trạng này có thể kéo dài thêm
Thứ tư, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ đầu tư công
Cần xác định năm 2025, đầu tư công và là một động lực, là “cứu cánh” cho tăng trưởng kinh tế. Cần xóa bỏ tư duy tháo gỡ từng điểm, từng sự án trong đầu tưu công mà cần có giải pháp giải quyết đồng bộ. Chính phủ cần ưu tiên kích cầu đầu tư công vào các dựa án sắp hoàn thành, nhanh chóng đưa vào sử dụng các dự án có quy mô lớn, có tiềm năng góp phần trực tiếp duy trì và mở rộng năng lực sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế. Cần đẩy mạnh tiến độ đầu tư công giúp tổng cầu của nâng kinh tế tăng lên. Nhờ đó, kích thích các doanh nghiệp gia nhập thị trường nhiều hơn để phát triển sản xuất bằng các giải páp thích ứng. Việc khơi thông dòng vốn đầu tư công cần được bắt đầu từ giải quyết từ những vướng mắc về cơ chế, chính sách liên quan đến trình tự lập, thẩm định kế hoạch đầu tư công hằng năm, thẩm quyền quyết định thời gian bố trí vốn; vướng mắc trong công tác xác định giá đất để thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng; trình tự thủ tục cấp phép kinh doanh cho các doanh nghiệp./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
HSBC (2024), Báo cáo tài chính năm 2024.
-
IMF (2024), Báo cáo triển vọng phát triển kinh tế thế giới 2024.
-
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) (2024), Báo cáo Cập nhật Triển vọng 2024.
-
Ngân hàng Thế giới (WB) (2024), Báo cáo cập nhật khu vực kinh tế châu Á, Thái Bình Dương
-
Quốc hội khóa 15 (2024), Nghị quyết số 158/2024/QH15, ngày 12/11/2023 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024.
-
Tổng cục Thống kê (2017-2024), Niên giám thống kê các năm, từ năm 2016 đến 2023, Nxb Thống kê
-
Tổng cục Thống kê (2024), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2024.
-
Tổng cục Thống kê (2024), Tổng quan thị trường giá cả tháng 11 và 11 tháng năm 2024
GS., TS. Ngô Thắng Lợi
PGS., TS. Bùi Đức Tuân
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 01/2025)
Bình luận