Kinh tế thế giới 2024-2025 và hàm ý đối với Việt Nam
Tóm tắt
Nghiên cứu tập trung phản ánh diễn biến kinh tế thế giới trong năm 2024 và triển vọng năm 2025; chỉ ra những yếu tố tác động tới triển vọng kinh tế thế giới năm 2025. Từ đó đưa ra khuyến nghị chính sách phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2025, hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021-2025.
Từ khóa: kinh tế thế giới, triển vọng kinh tế thế giới 2025, hàm ý cho Việt Nam
Summary
The study focuses on reflecting on the world economic developments in 2024 and prospects for 2025, pointing out factors affecting the world economic outlook in 2025. From there, recommendations are made for Vietnam's economic development policies to 2025, aiming at Vietnam's economic growth target for 2021-2025.
Keywords: world economy, world economic outlook 2025, implications for Vietnam
KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2024 VÀ TRIỂN VỌNG 2025
Năm 2024, kinh tế toàn cầu duy trì có chuyển biến tích cực hơn so với năm 2023. Lạm phát liên tục giảm, và đạt mức sát hơn với mục tiêu của ngân hàng trung ương ở hầu hết các nền kinh tế. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF, tháng 10/2024) dự báo tỷ lệ lạm phát toàn cầu sẽ giảm còn 3,5% vào cuối năm 2025, từ mức đỉnh 9,4% vào quý III/2021. Lạm phát tại khu vực Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự kiến sẽ giảm thêm, từ 5,4% vào năm 2024 xuống 3,8% vào năm 2025 và 3,0% vào năm 2026, được hỗ trợ bởi cách tiếp cận duy trì chính sách tiền tệ chặt chẽ ở hầu hết các quốc gia. Thị trường lao động cũng dần được cải thiện, tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp nhìn chung vẫn ở mức thấp hoặc gần mức thấp kỷ lục.
Thực trạng và triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu giai đoạn 2024-2025 vẫn còn nhiều yếu tố bất định, do tác động nhanh, mạnh, phức tạp và các rủi ro còn tiềm ẩn liên quan đến xung đột ở nhiều khu vực (Nga - Ucraina, Biển Đỏ, Trung Đông), căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, chính sách bất ổn, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, biến đổi khí hậu và các điều kiện thời tiết cực đoan, gia tăng các quy định về phát triển bền vững có ảnh hưởng đến hàng hóa nhập khẩu ở nhiều nước,... Ở một chiều hướng khác, kinh tế thế giới cũng chứng kiến những chuyển biến nhanh chưa từng có tiền lệ của một số công nghệ mới, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, qua đó giúp cải thiện năng suất lao động.
Các tổ chức quốc tế đã đưa ra các dự báo khác nhau về triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 và năm 2025. OECD (tháng 12/2024) dự báo, tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ tăng mức từ mức 3,2% vào năm 2024 lên mức 3,3% vào năm 2025 và năm 2026 (tăng 0,1% dự báo cho năm 2025 so với mức dự báo đưa ra vào tháng 9/2024). IMF (tháng 10/2024) dự báo GDP toàn cầu sẽ tăng 3,2% trong năm 2024-2025 (giữ nguyên mức dự báo cho năm 2024 và giảm 0,1% cho năm 2025 so với các mức dự báo đưa ra vào tháng 7/2024) (Bảng ).
Triển vọng tăng trưởng cũng có sự khác biệt ở các khu vực. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB, tháng 9/2024) dự báo các nước đang phát triển ở khu vực châu Á có thể đạt mức tăng trưởng 5,0% trong năm 2024 (tăng 0,1% so với dự báo đưa ra vào tháng 4/2024), và đạt mức 4,9% trong năm 2025. Báo cáo của Ban hỗ trợ chính sách – Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC, tháng 11/2024) đã dự báo tăng trưởng của khu vực APEC trong các năm 2025-2026 sẽ chậm hơn so với phần còn lại của thế giới. Đây là dự báo đáng lưu ý với khu vực APEC trong nhiều năm luôn được coi là khu vực tăng trưởng năng động của kinh tế thế giới.
Bảng: Triển vọng tăng trưởng kinh tế thế giới
|
2023 |
2024 |
2025 |
Chênh lệch |
|
2024 |
2025 |
||||
GDP thế giới (%) |
3,3 |
3,2 |
3,2 |
0 |
-0,1 |
Các nước phát triển |
1,7 |
1,8 |
1,8 |
0,1 |
0 |
Mỹ |
2,9 |
2,8 |
2,2 |
0,2 |
0,3 |
Khu vực đồng Euro |
0,4 |
0,8 |
1,2 |
-0,1 |
-0,3 |
Nhật Bản |
1,7 |
0,3 |
1,1 |
-0,4 |
0,1 |
Các nước đang phát triển và mới nổi |
4,4 |
4,2 |
4,2 |
0 |
-0,1 |
Các nước châu Á đang phát triển và mới nổi |
5,7 |
5,3 |
5,0 |
-0,1 |
-0,1 |
Trung Quốc |
5,2 |
4,8 |
4,5 |
-0,2 |
0 |
Ấn Độ |
8,2 |
7,0 |
6,5 |
0 |
0 |
ASEAN-5** |
4,0 |
4,5 |
4,5 |
0,1 |
-0,1 |
Thương mại thế giới (%) |
0,8 |
3,1 |
3,4 |
0 |
0 |
Chỉ số giá hàng hóa phi năng lượng (%) |
-5,7 |
2,9 |
-0,2 |
-2,1 |
-1,8 |
Lưu ý: *: Chênh lệch dự báo cho các năm 2024 và 2025 so với báo cáo tháng 7/2024.
**: Bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan.
Nguồn: IMF (tháng 10/2024)
Theo ước tính của Cục Phân tích Kinh tế Mỹ (BEA), tổng sản lượng trong nước (GDP) của Mỹ đã tăng trưởng 2,7% trong quý III/2024 so với cùng kỳ năm 2023, chậm lại so với mức tăng 3% trong quý trước. Tỷ lệ lạm phát (quy đổi hàng năm) tại Mỹ duy trì đà giảm từ đầu năm 2024 và có xu hướng tăng nhẹ trong tháng 10-11/2024, đạt 2,7% vào tháng 11/2024. Tương tự, lạm phát cơ bản hàng năm, sau khi loại trừ giá thực phẩm và năng lượng biến động, bắt đầu tăng trở lại và ổn định ở mức 3,3% trong 3 tháng từ tháng 9-11/2024. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ ổn định ở mức 4,1-4,2% trong giai đoạn tháng 8-11/2024. Từ tháng 7/2024, sản xuất liên tục thu hẹp, nhưng với tốc độ chậm lại, chỉ số PMI sản xuất đạt mức 49,7 vào tháng 11/2024. Tính chung 10 tháng đầu năm 2024. Mỹ thâm hụt hàng hóa và dịch vụ tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, xuất khẩu tăng 3,7% và nhập khẩu tăng 5,4 %.
Nền kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng ở mức 4,6% trong quý III/2024 so với cùng kỳ năm 2023, sau mức tăng 4,7% trong quý II/2024. Đây là mức tăng thấp nhất kể từ đầu năm 2023, thấp hơn so với mục tiêu cả năm 5% của Chính phủ Trung Quốc. Trung Quốc duy trì xu hướng lạm phát giá tiêu dùng kể từ đầu năm 2024, tỷ lệ lạm phát hàng năm của Trung Quốc giảm từ 0,6% vào tháng 8/2024 xuống còn 0,2% vào tháng 11/2024. Giá tiêu dùng cơ bản, trừ chi phí thực phẩm và năng lượng, cũng duy trì xu hướng tăng nhưng với tốc độ chậm lại, đạt mức 0,3% so với cùng kỳ năm 2023, tăng trở lại từ mức tăng nhỏ nhất kể từ tháng 02/2021 là 0,1% vào tháng 9/2024. Sản xuất của Trung Quốc có phần suy giảm trong nửa cuối năm 2024 với hai tháng sản xuất thu hẹp và các tháng còn lại chỉ mở rộng nhẹ, chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) trong lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc đạt 51,5 vào tháng 11/2024, được đánh giá là hiệu quả của một loạt các biện pháp kích thích của Chính phủ vào cuối tháng 9. Tính chung 11 tháng đầu năm 2024, Trung Quốc đạt thặng dư thương mại tới 884,7 tỷ USD, trong đó xuất khẩu tăng 5,4% lên 3,24 nghìn tỷ USD trong khi nhập khẩu tăng nhẹ 1,2% lên 2,36 nghìn tỷ USD. Trong đó, thặng dư thương mại với Mỹ đạt 326,8 tỷ USD.
Nền kinh tế Nhật Bản đạt mức tăng trưởng 1,2% trong quý III/2024 (đã quy đổi theo năm). Đây là quý thứ hai liên tiếp tăng trưởng theo năm nhưng yếu hơn nhiều so với mức tăng trưởng 2,2% trong quý II/2024. Theo báo cáo của Văn phòng Nội các Nhật Bản, đà phục hồi kinh tế bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi nhu cầu bên ngoài liên tục sụt giảm quý thứ ba liên tiếp. Tỷ lệ lạm phát (quy đổi theo năm) ở Nhật Bản duy trì đà giảm, đạt 2,3% vào tháng 10/2024. Lạm phát cơ bản bắt đầu giảm mạnh từ tháng 8/2024, xuống mức thấp nhất trong sáu tháng là 2,3% vào tháng 10/2024. Sản xuất tiếp tục thu hẹp, chỉ số PMI sản xuất đã giảm xuống 49,5 vào tháng 12/2024 (tháng thứ sáu liên tiếp), khi sản lượng, đơn đặt hàng mới và doanh số bán hàng nước ngoài đều giảm mạnh. Tính chung 11 tháng đầu năm 2024, Nhật Bản thâm hụt thương mại 5.811,3 tỷ Yên từ mức thâm hụt 9.212,4 Yên cùng kỳ năm 2023, khi xuất khẩu tăng nhanh hơn so với nhập khẩu. Cụ thể, xuất khẩu đã tăng 6,5%, và nhập khẩu chỉ tăng 2,4%.
GDP của Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã tăng trưởng ở mức 0,9% trong quý III/2024 so với cùng kỳ năm 2023. Đây là mức tăng trưởng tốt nhất kể từ quý I/2023, và cao hơn so với mức tăng 0,5% đã được điều chỉnh giảm trong quý II/2024. Tỷ lệ lạm phát (quy đổi theo năm) ở Khu vực Eurozone giảm mạnh xuống mức 1,9% trong tháng 9/2024, và tăng trở lại lên mức 2,3% vào tháng 11/2024. Tỷ lệ lạm phát cơ bản (quy theo năm) duy trì đà giảm, và ổn định ở mức 2,7% vào tháng 9-11/2024. Lĩnh vực sản xuất duy trì xu hướng thu hẹp trong năm 2024, kéo dài chuỗi hai năm liên tục suy giảm hàng tháng trong hoạt động sản xuất của Khu vực. Chỉ số PMI sản xuất của Khu vực Eurozone đã giảm xuống 45,2 vào tháng 11/2024. Tính chung 9 tháng đầu năm 2024, khu vực Eurozone đạt thặng dư thương mại tới 140,8 tỷ Euro, so với mức thặng dư 13,9 tỷ Euro trong cùng kỳ năm 2023. Trong đó, xuất khẩu tăng 0,4% và nhập khẩu giảm 5,6% so với cùng kỳ năm 2023.
Thương mại hàng hóa toàn cầu tiếp tục tăng trưởng lạc quan trong quý IV/2024. Chỉ số thương mại hàng hóa toàn cầu của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO, tháng 12/2024) đạt mức 102,7, cho thấy thương mại sẽ tiếp tục tăng trưởng ổn định trong quý IV. Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD, tháng 12/2024) dự báo thương mại toàn cầu phục hồi và đạt tới 33 nghìn tỷ USD vào năm 2024 (cao hơn cả mức kỷ lục vào năm 2022). Ngân hàng Thế giới (NHTG, tháng 10/2024) dự báo thương mại hàng hóa toàn cầu giảm 3,0% trong năm 2024, và tiếp tục giảm 5,0% vào năm 2025 và 2,0% vào năm 2026, chủ yếu do giá dầu giảm, bù đắp cho giá khí đốt tự nhiên, giá kim loại và nguyên liệu nông nghiệp. Cụ thể, giá dầu thô Brent dự kiến đạt mức trung bình 80 USD/thùng vào năm 2024 và có khả năng giảm xuống còn 73 USD/thùng vào năm 2025 và 72 USD/thùng vào năm 2026. Một số yếu tố có thể tác động đến giá được đề cập gồm: (1) Khả năng xung đột ở Trung Đông leo thang, gia tăng rủi ro tăng giá năng lượng đáng kể trong ngắn hạn, với hậu quả tiềm tàng đối với các mặt hàng khác; (2) Các biện pháp kích thích đồng bộ ở Trung Quốc và tăng trưởng vượt xu hướng ở Mỹ có thể đẩy giá hàng hóa lên cao hơn. Tuy nhiên, vẫn có một số yếu tố lạc quan hỗ trợ cho giá hàng hóa, chẳng hạn, nhu cầu dầu toàn cầu giảm tốc, đặc biệt là ở Trung Quốc; đa dạng hóa sản xuất dầu; và năng lực cung cấp dầu dồi dào của OPEC+; hoạt động công nghiệp toàn cầu yếu hơn dự kiến...
Hoạt động kinh tế, thương mại và đầu tư toàn cầu vẫn phải đối mặt với các hoạt động cạnh tranh địa chiến lược nói chung và chiến tranh thương mại giữa các siêu cường. Số biện pháp mới nhằm cải thiện khả năng chiến lược của các nước trên thế giới đã đạt hơn 100 biện pháp trong tháng 11/2024. Căng thẳng thương mại giữa các siêu cường diễn biến ngày càng phức tạp. Khả năng Mỹ gia tăng thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc được thảo luận nhiều hơn, sau khi ông Donald Trump trúng cử Tổng thống và có một số thông điệp qua mạng xã hội. Canada đã áp thuế bổ sung đối với một số mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, như ô tô điện (thuế suất bổ sung ở mức 100%), sản phẩm thép và nhôm (thuế suất bổ sung ở mức 100%)... Liên minh châu Âu (EU) cũng đã quyết định tăng thuế đối với xe điện sản xuất ở Trung Quốc với mức tăng tối đa 45,3% vào cuối tháng 10/2024. Hợp tác quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu có thể đối mặt với thách thức, rủi ro nhiều hơn. Hội nghị lần thứ 29 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP29) đã đạt được một số kết quả, song vẫn phải đối mặt với khả năng suy giảm hợp tác trong năm 2025 khi các nước lớn (như Mỹ) có thể điều chỉnh chính sách. Trong khi đó, xung đột còn diễn biến phức tạp giữa Nga-Ucraina và ở khu vực Trung Đông cũng đặt ra nhiều rủi ro, thách thức đối với môi trường đầu tư – kinh doanh toàn cầu.
Theo đánh giá của UNCTAD (tháng 10/2024), dòng vốn FDI vào ASEAN gia tăng đáng kể trong thập kỷ qua. Năm 2023, tỷ trọng FDI toàn cầu của ASEAN đạt 17%, tăng mạnh so với mức trung bình 6% trong giai đoạn 2006-2015. Kết quả này là nhờ hội nhập khu vực ngày càng sâu rộng hơn, môi trường đầu tư được cải thiện, và tăng trưởng GDP ổn định đã mang đến nhiều cơ hội và tâm lý tích cực hơn của các nhà đầu tư và hiệp hội doanh nghiệp. Cùng với đó, Kế hoạch hành động hướng tới Cộng đồng Kinh tế ASEAN giai đoạn 2016-2025 cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện môi trường chính sách đầu tư trên toàn khu vực. Tuy nhiên, báo cáo khuyến nghị ASEAN cần tăng cường khuôn khổ tạo thuận lợi đầu tư, và có thể xem xét nên tăng cường hợp tác khu vực, đầu tư vào phát triển kỹ năng và thúc đẩy quan hệ đối tác công - tư để củng cố hệ sinh thái công nghiệp, tiếp tục tận dụng mối quan hệ cộng sinh giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát triển công nghiệp và hội nhập khu vực.
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI TRIỂN VỌNG KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2025
Triển vọng kinh tế thế giới năm 2025 có thể bị tác động bởi nhiều yếu tố:
Một là, tính bất định còn cao. Rủi ro tác động tiêu cực đến triển vọng tăng trưởng toàn cầu gia tăng trong bối cảnh xung đột khu vực leo thang, chính sách tiền tệ vẫn thắt chặt trong thời gian dài, khả năng thị trường tài chính biến động trở lại với những tác động tiêu cực đến thị trường nợ, tăng trưởng chậm lại sâu hơn ở Trung Quốc và các chính sách bảo hộ tiếp tục gia tăng. Tuy nhiên, đầu tư toàn cầu có thể phục hồi mạnh mẽ. Đầu tư công ở các nền kinh tế lớn có xu hướng tăng để đáp ứng nhiều mục tiêu chính sách cấp bách, từ quá trình chuyển đổi xanh đến nâng cấp cơ sở hạ tầng và thúc đẩy đầu tư vào khoa học và công nghệ, và tác động tích cực đến hoạt động đầu tư tư nhân, từ đó, gia tăng triển vọng phục hồi nhu cầu và thương mại toàn cầu.
Hai là, biến động giá hàng hóa do hệ quả của các cú sốc về khí hậu, căng thẳng địa chính trị leo thang. Xung đột khu vực, đặc biệt là xung đột ở Trung Đông và chiến tranh ở Nga – Ukraine diễn biến khó lường, có thể làm gián đoạn hoạt động thương mại, dẫn đến giá lương thực, năng lượng và các mặt hàng khác liên tục tăng. Các điều kiện thời tiết cực đoan và biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng đến mùa màng, theo đó, gia tăng áp lực lên giá lương thực và an ninh lương thực.
Ba là, cạnh tranh thương mại – công nghệ giữa các siêu cường gia tăng. Mỹ có thể gia tăng thuế nhập khẩu đối với hàng hóa từ Trung Quốc và các quốc gia khác. Mỹ cũng có thể dùng thuế nhập khẩu để gia tăng sức ép buộc một số nền kinh tế phải ký kết các hiệp định thương mại theo hướng có lợi cho Mỹ. Trong bối cảnh đó, một số các nền kinh tế nhỏ hơn sẽ phải gia tăng hợp tác song phương và/hoặc theo nhóm nhỏ, có thể thông qua các hiệp định thương mại tự do ở quy mô phù hợp. Trong bối cảnh đó, lưu chuyển thương mại hàng hóa và dịch vụ trên thế giới nói chung và ở khu vực châu Á nói riêng có thể có sự thay đổi đáng kể.
Bốn là, Cách mạng Công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Các công nghệ mới (đặc biệt là trí tuệ nhân tạo - AI) đã chuyển biến nhanh chưa từng có tiền lệ, qua đó có thể thúc đẩy đổi mới sáng tạo, cải thiện năng suất lao động. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của AI cũng đặt ra nhiều thách thức trong quản lý, quản trị, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến lao động và an toàn an ninh mạng.
MỘT SỐ HÀM Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Trong năm 2024, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, tập trung vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan phối hợp thực hiện các giải pháp bình ổn thị trường vàng gắn với ổn định tỷ giá, trong đó có các nội dung về minh bạch hóa lãi suất cho vay, minh bạch hóa thị trường vàng. Thủ tướng Chính phủ đã có những chỉ đạo về triển khai nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ, tài khóa năm 2024. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có những trao đổi, đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp trong nước và nước ngoài nhằm tiếp nhận, đối thoại về những vấn đề, vướng mắc đối với hoạt động sản xuất – kinh doanh, trong đó có thị trường tín dụng, thị trường bất động sản… Lãnh đạo Chính phủ cũng đưa ra những chỉ đạo, thông điệp quan trọng về bảo đảm các cân đối lớn, đặc biệt là bảo đảm không thiếu điện trong năm 2024. Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện các phiên đấu thầu vàng và bán ngoại tệ để can thiệp theo hướng giảm áp lực trên thị trường vàng và thị trường ngoại hối. Công tác truyền thông chính sách được thực hiện thường xuyên, tích cực, hiệu quả, qua đó giúp củng cố niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và người dân đối với các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh việc tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện các các giải pháp kịp thời nhằm phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng tiếp tục chú trọng công tác hoàn thiện thể chế, tạo dựng khung khổ pháp lý hoàn thiện cho các hoạt động kinh tế. Chính phủ đã ban hành các Nghị định hướng dẫn Luật Giao dịch điện tử, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ môi trường… Chính phủ cũng chủ động kiến nghị Quốc hội xem xét, quyết định việc đưa một số Luật có hiệu lực sớm (gồm có Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở) từ ngày 01/8/2024 (thay vì hiệu lực ban đầu là 01/01/2025), đồng thời chuẩn bị các văn bản hướng dẫn kịp thời để phù hợp với yêu cầu triển khai các Luật. Chính phủ cũng đã có những thảo luận tích cực về các dự thảo Nghị định thể hiện tư duy thử nghiệm như Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng, Nghị định về cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn. Thủ tướng Chính phủ đã có các quyết định phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh, chẳng hạn như các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi chức năng quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính.
Công tác quy hoạch, xây dựng các chính sách dài hạn nhằm khơi thông nguồn lực đầu tư cho nền kinh tế, tăng năng suất lao động, mở rộng thị trường, giải quyết các công việc thường xuyên, các vấn đề phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội... Thủ tướng Chính phủ đã có các quyết định phê duyệt quy hoạch vùng, quy hoạch các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo sát sao nhằm đẩy mạnh tiến độ thực hiện các dự án hạ tầng quan trọng, đảm bảo các công trình hoàn thành đạt hoặc sớm so với thời hạn. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo thi công công trình đường dây 500kV mạch 3 từ Quảng Trạch (Quảng Bình) đến Phố Nối (Hưng Yên) và công trình này đã được khánh thành vào ngày 29/8/2024 – chỉ sau 6 tháng thực hiện. Thủ tướng Chính phủ đã có các chỉ đạo nhằm đẩy nhanh việc hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc” và các công trình giao thông trọng điểm vào năm 2025.
Công tác chăm lo cho đời sống người lao động, an sinh xã hội tiếp tục được đẩy mạnh thực hiện. Chính phủ đã chỉ đạo đẩy nhanh việc chuẩn bị cho việc cải cách tiền lương từ 01/7/2024. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo ứng phó, khắc phục hậu quả của cơn bão số 3, hỗ trợ các địa phương và người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh, bảo đảm đời sống sau bão. Lãnh đạo Chính phủ cũng tập trung chỉ đạo các nội dung về bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của người dân, trong đó có các nội dung về tháo gỡ khó khăn cho nhà ở xã hội, xóa nhà tạm, nhà dột nát, cân nhắc đánh giá tác động với hộ gia đình khi điều chỉnh giá điện... Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện số 47/CĐ-TTg, ngày 13/5/2024 về tăng cường quản lý thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng. Tăng cường các giải pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; bảo đảm nếp sống văn minh trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; phòng cháy chữa cháy; tăng cường công tác quản lý, điều hành giá trong năm 2024.
Đối với lĩnh vực ngoại giao kinh tế, Việt Nam tiếp tục có những đóng góp quan trọng. Các hoạt động, phát biểu của Lãnh đạo Chính phủ tại các sự kiện, diễn đàn quốc tế đã truyền tải thông điệp rõ ràng về một nước Việt Nam đang phục hồi, cải cách và hội nhập mạnh mẽ. Lãnh đạo Chính phủ và các bộ, ngành đã có những tiếp tục, trao đổi tích cực, thẳng thắn với các nhà đầu tư tiềm năng trong một số lĩnh vực quan trọng. Lãnh đạo Chính phủ cũng đã có những chia sẻ kinh nghiệm với các đối tác về định hướng phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Các hoạt động của Lãnh đạo Chính phủ, các bộ, ngành cũng đóng góp tích cực vào các diễn đàn đa phương (như: ASEAN, APEC, BRICS, G20, v.v.).
Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tương đối tích cực. Tăng trưởng kinh tế phục hồi tích cực qua các quý, dự kiến sẽ đạt khoảng 7% cho cả năm 2024. Lạm phát ở Việt Nam vẫn được kiểm soát ở mức phù hợp, thấp hơn so với mục tiêu Quốc hội đề ra cho cả năm (4-4,5%). Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng có dấu hiệu tăng trưởng tích cực: Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam trong 11 tháng đầu năm 2024 ước đạt 31,38 tỷ USD, tăng 1,0% so với cùng kỳ năm 2023; vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đạt 21,68 tỷ USD, tăng 7,1%. Tính chung 11 tháng đầu năm 2024, tổng giá trị xuất nhập khẩu cả nước đạt 715,55 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, trị giá xuất khẩu 2024 đạt 369,93 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm 2023; nhập khẩu đạt 345,62 tỷ USD, tăng 16,4% so với cùng kỳ. Theo đó, mức thặng dư thương mại hàng hóa đạt 24,31 tỷ USD.
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá bối cảnh và triển vọng kinh tế thế giới, Việt Nam cần cân nhắc các nội dung sau:
Thứ nhất, tăng cường theo dõi sát tình hình, diễn biến kinh tế và thị trường ở các nước đối tác, trên cơ sở đó xây dựng, cập nhật các kịch bản, kịp thời thực thi các giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, giữ vững và tạo thêm dư địa cho điều hành chính sách kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng cải thiện chất lượng tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, đa dạng hóa, tăng cường năng lực nội tại và sức chống chịu của nền kinh tế trước những biến động khó lường của kinh tế và thương mại thế giới.
Thứ ba, hoàn thiện khung chính sách, pháp lý để tận dụng cơ hội từ các mô hình kinh tế mới (kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế sáng tạo...). Đẩy nhanh việc nghiên cứu, ban hành các Nghị định của Chính phủ về cơ chế thí điểm trong các lĩnh vực fintech, kinh tế tuần hoàn. Rà soát các quy định pháp lý liên quan đến các mô hình, hoạt động kinh tế ban đêm để sớm kiến nghị hướng giải quyết, tháo gỡ. Nghiên cứu ban hành Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế sáng tạo ở Việt Nam.
Thứ tư, chủ động nghiên cứu, hoàn thiện khung chính sách và chuẩn bị các điều kiện thể chế, hạ tầng kỹ thuật cần thiết nhằm hình thành một hệ sinh thái hiện đại cho đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam, tập trung vào các lĩnh vực dựa trên nền tảng AI và công nghiệp bán dẫn. Rà soát, tháo gỡ các vấn đề về chính sách cạnh tranh trong kinh tế số. Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong việc điều tiết các hoạt động của các tập đoàn công nghệ lớn
Thứ năm, chủ động trao đổi, hợp tác với các đối tác nhằm thực thi hiệu quả các FTA, tập trung vào CPTPP, EVFTA, UKVFTA và RCEP. Tham gia đàm phán hiệu quả về nội dung nâng cấp một số FTA hiện có của ASEAN. Tận dụng hiệu quả các điều khoản về Hợp tác và Nâng cao năng lực trong các FTA để nâng cao năng lực cho doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là thích ứng với các yêu cầu phát triển bền vững. Tiếp tục giải trình hiệu quả và vận động các đối tác công nhận quy chế kinh tế thị trường đầy đủ cho Việt Nam./.
Tài liệu tham khảo
-
Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD, 2024), Báo cáo đầu tư ASEAN 2024, tháng 10/2024, truy cập từ https://asean.org/wp-content/uploads/2024/10/AIR2024-3.pdf.
-
Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD, 2024), Cập nhật thương mại toàn cầu, tháng 12/2024, truy cập từ https://unctad.org/system/files/official-document/ditcinf2024d3.pdf .
-
Ngân hàng Phát triển châu Á (2024), Triển vọng phát triển Châu Á (ADO) tháng 9 năm 2024, truy cập từ https://www.adb.org/publications/asian-development-outlook-september-2024.
-
Ngân hàng thế giới (2023), Triển vọng thị trường hàng hóa, tháng 10 năm 2024, truy cập từ https://openknowledge.worldbank.org/server/api/core/bitstreams/bbda9ad3-4f12-4626-ad4b-94a4d20fbd52/content.
-
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (2024), Triển vọng kinh tế thế giới: Chính sách xoay trục, mối đe dọa gia tăng, tháng 10/2024, truy cập từ https://www.imf.org/en/Publications/WEO/Issues/2024/10/22/world-economic-outlook-october-2024.
-
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (2024), Triển vọng kinh tế OECD, tháng 12/2024, Số 2, truy cập từ https://www.oecd.org/en/publications/oecd-economic-outlook-volume-2024-issue-2_d8814e8b-en.html.
-
Tổ chức Thương mại Thế giới (2024), Báo cáo giám sát thương mại WTO về các biện pháp thương mại G20, tháng 11/2024, truy cập từ https://www.wto.org/english/news_e/news24_e/trdev_13nov24_wto_report_e.pdf.
TS. Trần Thị Hồng Minh
Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
-
(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 1/2025)
Bình luận