HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG NĂM 2020 TRONG BỐI CẢNH DỊCH COVID-19

Kết quả đạt được

Ngay từ đầu năm 2020, thế giới trong đó có Việt Nam đã chứng kiến những biến động lớn chưa từng có trong nhiều thập kỷ do tác động của đại dịch Covid-19. Nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề do sản xuất, kinh doanh bị đình trệ, nhiều hoạt động văn hóa - xã hội cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Các doanh nghiệp đối mặt với vấn đề suy giảm các hoạt động và giảm dòng tiền, nhất là trong các lĩnh vực, như: du lịch, giải trí, ô tô, bán lẻ... Hàng triệu lao động thiếu, mất việc làm, giảm sâu thu nhập... Những vấn đề về thanh khoản của hộ gia đình và doanh nghiệp, cùng với sự bất ổn ngày càng tăng cao đã tác động tiêu cực đến hoạt động của thị trường tài chính và điều này cũng làm tăng nguy cơ nợ quá hạn đối với các khoản vay vốn ngân hàng. Vì vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực, đồng thời cũng gánh trọng trách nặng nề hơn trong thực thi chính sách tiền tệ.

Tác động của dịch Covid-19 đến kết quả hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Đại dịch buộc các NHTM phải tăng cường kiểm soát rủi ro nợ xấu

Trước khó khăn chung của nền kinh tế, năm 2020, NHNN đã 3 lần hạ lãi suất điều hành và ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN, ngày 13/3/2020 quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ cho khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid -19 làm cơ sở pháp lý cho các tổ chức tín dụng cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19. Theo đó, các NHTM đã 3 lần đồng thuận hạ lãi suất cho vay từ 1,5%-2%/năm để hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19. Nhờ đó, lãi suất cho vay giảm bình quân khoảng 1%/năm so với cuối năm 2019; lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số ngành, lĩnh vực ưu tiên ở mức 4,5%/năm. Tính đến cuối tháng 12/2020, các tổ chức tín dụng đã cơ cấu thời hạn trả nợ cho khoảng 270 nghìn khách hàng với dư nợ gần 355 nghìn tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho khoảng 590 nghìn khách hàng với dư nợ trên 1 triệu tỷ đồng; cho vay mới lãi suất ưu đãi với doanh số lũy kế từ ngày 23/01/2020 đến cuối tháng 12/2020 đạt gần 2,3 triệu tỷ đồng cho hơn 390 nghìn khách hàng. Ước tính tổng số tiền phí dịch vụ thanh toán mà các ngân hàng miễn, giảm cho khách hàng đến hết năm 2020 sau 02 đợt giảm phí là khoảng 1.004 tỷ đồng.

Theo báo cáo của NHNN, tại thời điểm 21/12/2020, tín dụng toàn hệ thống tăng 10,14%, trong khi huy động vốn tăng hơn nhiều: 12,87%. Đến cuối năm 2020, tín dụng tăng 12,13%, NHNN chưa công bố con số tăng trưởng huy động vốn, song theo báo cáo của nhiều tổ chức nghiên cứu, huy động vốn toàn hệ thống năm 2020 vẫn tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng. Năm 2020, NHNN tiếp tục chỉ đạo hệ thống ngân hàng thực hiện Đề án tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu… Qua tái cơ cấu, năng lực tài chính của các ngân hàng được củng cố, chất lượng quản trị điều hành từng bước được nâng cao, tiệm cận với thông lệ quốc tế và tính minh bạch trong hoạt động tín dụng của ngân hàng từng bước được cải thiện. Đến ngày 31/10/2020, tổng tài sản của toàn hệ thống đạt 13.175.947 tỷ đồng, tăng 4,75% so với thời điểm cuối năm 2019; vốn điều lệ của toàn hệ thống đạt 643.196 tỷ đồng, tăng 5,05% so với cuối năm 2019. Đến nay, hầu hết các tổ chức tín dụng đã áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo Thông tư số 41/2016/TT-NHNN. Thậm chí, hàng loạt ngân hàng công bố hoàn thành 3 trụ cột của Basel 2, như: VIB, Vietcombank, SeABank, VPBank, TPBank, MSB, VietCapitalBank, Shinhan Bank, LienVietPostBank.

Trong năm 2020, chất lượng tín dụng được cải thiện. Hệ thống ngân hàng đã cơ bản đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống cho người dân, doanh nghiệp, góp phần tích cực hạn chế người dân tìm đến các nguồn “tín dụng đen”.

BẢNG: Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng

(Tính đến tháng 12/2020)

Tác động của dịch Covid-19 đến kết quả hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước

Theo thống kê của NHNN (Bảng), tính đến tháng 12/2020, tín dụng tăng 7,39% so với cuối năm 2019, cơ cấu tín dụng chuyển dịch phù hợp, theo đó tín dụng tập trung vào sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên... Dòng vốn ngân hàng tiếp tục chảy mạnh vào 5 lĩnh vực ưu tiên, hỗ trợ tích cực cho các ngành là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, năm 2020, dư nợ ngành thương mại dịch vụ tăng trưởng cao nhất, đạt 7,29% so với cuối năm 2019, cũng là ngành chiếm tỷ trọng lớn 62,72% dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế. Dư nợ ngành công nghiệp và xây dựng là 5,84%, chiếm tỷ trọng 28,58%; tín dụng đối với ngành nông, lâm nghiệp thủy sản tăng 5,36%, chiếm 8,66% tổng dư nợ toàn nền kinh tế.

Như vậy, mặc dù tín dụng trong quý I và quý II tăng trưởng chậm, nhưng đã phục hồi trong 2 quý cuối năm 2020. Tăng trưởng tín dụng sớm phục hồi là điểm sáng trong bức tranh ngân hàng năm 2020, góp phần hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, do cầu tín dụng suy yếu bởi tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, nên dù lãi suất cho vay đang ở mức gần như thấp nhất trong vòng 10 năm trở lại đây nhưng tín dụng vẫn không thể tăng so với những năm trước.

Những khó khăn, thách thức

Hiện nay các NHTM cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Do dịch bệnh, nhiều doanh nghiệp không trả được nợ, dẫn đến tỷ lệ nợ xấu gia tăng, ảnh hưởng đến an toàn hoạt động của hệ thống NHTM. Vì vậy, không chỉ ảnh hưởng về cầu tín dụng, dịch Covid-19 cũng ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng tín dụng. Tính đến hết quý III/2020 nợ xấu tại 17 ngân hàng niêm yết ở mức hơn 97.280 tỷ đồng, tăng 31% so với cuối năm 2019 và tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống NHTM cũng tăng lên mức 2,14% từ mức 1,8% tại thời điểm cuối quý II.

Thực hiện Thông tư số 01/2020/TT-NHNN, các ngân hàng tích cực triển khai cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ để hỗ trợ doanh nghiệp. Vì vậy, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng giảm vào quý IV/2020, nhưng chưa thể chủ quan bởi nợ xấu ngân hàng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Theo Vụ Tín dụng, đến cuối năm 2020, các NHTM đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khoảng 200 nghìn khách hàng với dư nợ khoảng 355 nghìn tỷ đồng. Trong tổng dư nợ là 8,5 triệu tỷ đồng, thì nợ xấu tiềm ẩn từ nợ cơ cấu là 4%; nếu 50% số nợ cơ cấu quay lại nợ tốt, nhưng như thế tỷ lệ nợ xấu cũng khoảng 2%, cộng với tỷ lệ nợ xấu nội bảng hiện tại là hơn 2%, thì nợ xấu lên tới 4%; đây sẽ là khó khăn, thách thức rất lớn đối với các ngân hàng trong năm 2021. Như vậy, nợ xấu hiện nay của các ngân hàng chưa phản ánh hết được thực tế do khá nhiều khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo Thông tư số 01/2020/TT-NHNN, nhưng về bản chất đã là nợ xấu.

Cùng với đó, nhiều doanh nghiệp đã phát sinh nợ quá hạn, không đủ điều kiện để các NHTM thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo Thông tư số 01/2020/ TT-NHNN nhưng vẫn liên tục kiến nghị, tạo áp lực cho các NHTM.

Không chỉ đến cuối năm 2020, thực trạng nợ xấu của hệ thống ngân hàng mới được xác định tăng lên so với cuối năm 2019, mà ngay từ giữa năm, ngày 27/7/2020, Ban chỉ đạo cơ cấu lại hệ thống ngân hàng đã họp đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14, ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và Quyết định số 1058/QĐ-TTg, ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020”. Qua đó, toàn hệ thống ngân hàng đã xử lý được 557.000 tỷ đồng nợ xấu, trong đó các tổ chức tín dụng tự xử lý được trên 76%, giúp giảm tỷ lệ nợ xấu nội bảng xuống còn 1,63%, tỷ lệ nợ xấu nội bảng kể cả nợ bán cho VAMC và nợ tiềm ẩn ở mức khoảng 4,43%, giảm mạnh so với mức 10,08% trước đây [6].

Bên cạnh đó, thừa vốn là thực trạng của nhiều ngân hàng trong năm 2020, khi những ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy dòng vốn chảy mạnh vào ngân hàng như một kênh đầu tư an toàn, trong khi nhu cầu vay vốn suy yếu trầm trọng. Số liệu cập nhật đến ngày 24/11/2020, huy động vốn tăng 10,65% so với đầu năm 2020, tín dụng tăng 7,93% và tổng phương tiện thanh toán tăng 10,31%. Như vậy, chênh lệch giữa tăng trưởng huy động vốn và tín dụng tiếp tục được mở rộng thêm, từ mức 2,58% vào tháng 9/2020 lên 2,72% vào tháng 11/2020, bất chấp tốc độ tăng trưởng tín dụng đã có sự cải thiện đáng kể từ đầu tháng 10/2020 đến cuối năm [5].

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

So với những ngành chịu ảnh hưởng trực tiếp của dịch Covid-19, ngành Ngân hàng ban đầu được các định chế đánh giá chịu thiệt hại nhẹ hơn. Song trên thực tế, thiệt hại của ngành này không hề nhẹ khi khoảng 70% tổng thu nhập của các NHTM vẫn đến từ thu nhập lãi. Nếu không thúc đẩy tín dụng tăng trưởng, ngân hàng sẽ rơi vào khó khăn kép khi thiếu nguồn thu chính bù đắp cho các thiếu hụt do khoanh, giãn nợ, trích lập dự phòng rủi ro nợ cũ - mới. Trong khi đó, nếu nới lỏng điều kiện cho vay thì rất rủi ro. Vì vậy, việc thực hiện đồng bộ các giải pháp; điều hành một cách linh hoạt, hiệu quả các chính sách nhằm tạo điều kiện giảm thiểu tác động của dịch Covid-19 đối với ngành ngân hàng có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

Đối với Chính phủ

- Chính phủ, các bộ ngành và các địa phương cần đẩy nhanh tiến độ triển khai có hiệu quả các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và người dân vượt qua khó khăn của dịch Covid-19 về thuế, gói an sinh xã hội, thủ tục hành chính, đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công…

- Cần huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm cân đối nguồn để triển khai các gói hỗ trợ cho người lao động, bảo đảm an sinh xã hội, hỗ trợ sản xuất kinh doanh phù hợp. Cần hỗ trợ đúng các nhóm đối tượng theo quy định của Chính phủ, việc xác định đúng đối tượng rất quan trọng để tránh bị lạm dụng, kể cả từ phía cơ quan quản lý cũng như đối tượng thụ hưởng. Có như vậy mới phát huy hiệu quả của các gói hỗ trợ giúp người dân và doanh nghiệp vượt qua khó khăn, phục hồi sản xuất bảo đảm nguồn thu trả nợ ngân hàng.

Đối với NHNN

Thứ nhất, NHNN cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt. Chính sách tiền tệ cần tiếp tục theo hướng chủ động, linh hoạt, nhưng cần thích ứng trong bối cảnh mới; chính sách tài khóa tiếp tục chặt chẽ nhưng cần đồng hành, thích ứng nhiều hơn nữa nhằm hỗ trợ khôi phục nền kinh tế nhanh và bền vững hơn. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa và chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả, ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát.

Thứ hai, kịp thời xử lý các khó khăn, vướng mắc liên quan đến cơ chế, chính sách cấp tín dụng nhằm hỗ trợ các đối tượng chịu tác động của dịch Covid-19 và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng phục vụ sản xuất, kinh doanh. Điều hành chính sách tín dụng theo hướng mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, hiệu quả, đẩy mạnh triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện để khách hàng khôi phục sản xuất, kinh doanh.

Thứ ba, NHNN cần tiếp tục hướng dòng vốn tín dụng của các NHTM đến các lĩnh vực ưu tiêu của nền kinh tế theo định hướng của Chính phủ, như: nông nghiệp – nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế tạo, doanh nghiệp nhỏ và vừa, ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp. Thường xuyên theo dõi, đánh giá diễn biến và tác động của dịch bệnh đối với khả năng tăng trưởng tín dụng toàn ngành ngân hàng để xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tín dụng đối với các NHTM nhằm đáp ứng đầy đủ kịp thời vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, nhất là các ngành, lĩnh vực bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, tạo điều kiện cho khách hàng vay vốn tiếp tục vay mới khôi phục sản xuất; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.

Thứ tư, NHNN cần yêu cầu các tổ chức tín dụng tiếp tục thực hiện các giải pháp cơ cấu lại; tích cực triển khai các biện pháp xử lý nợ xấu, kiểm soát và hạn chế nợ xấu mới phát sinh, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động của tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao, bảo đảm an toàn, tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.

Đối với NHTM

Một là, các NHTM cần tăng cường kiểm soát rủi ro nợ xấu. Trước thực tế khối nợ xấu tiếp tục có xu hướng tăng trong năm 2021, để kiểm soát rủi ro nợ xấu, bên cạnh việc tích cực xử lý nợ xấu, các ngân hàng cũng cần chủ động trích lập dự phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu và tiềm ẩn nợ xấu. Đó là nguồn lực để các ngân hàng xử lý những rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay, ngân hàng có tỷ lệ trích lập dự phòng nợ xấu cao sẽ có nguồn lực đối ứng để xử lý nợ xấu tốt hơn. Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng.

Hai là, tiếp tục triệt để tiết giảm chi phí để tiếp tục giảm lãi suất cho vay tiếp sức cho nền kinh tế, đơn giản hóa quy trình thủ tục nội bộ, tạo điều kiện cho khách hàng vay mới nhưng không hạ chuẩn cho vay, bảo đảm chất lượng, an toàn tín dụng, duy trì hoạt động lành mạnh của hệ thống ngân hàng.

Ba là, đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt; đa dạng các chương trình, sản phẩm tín dụng phù hợp để hỗ trợ tích cực hơn với các đối tượng, ngành kinh tế; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, áp dụng công nghệ để hạn chế giao dịch trực tiếp, tạo điều kiện tăng cường tiếp cận tín dụng cho khách hàng; tiếp tục triển khai các giải pháp phòng, chống dịch bảo đảm hoạt động của hệ thống ngân hàng an toàn, thông suốt, không bị gián đoạn./.

Tài liệu tham khảo:

1. Ngân hàng Nhà nước (2020). Thông tư số 01/2020/TT-NHNN, ngày 13/3/2020 quy định về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19

2. Ngân hàng Nhà nước (2020). Chỉ thị số 02/CT-NHNN, ngày 31/3/2020 về các giải pháp cấp bách của ngành ngân hàng nhằm tăng cường phòng, chống và khắc phục khó khăn do tác động của dịch bệnh Covid-19

3. Ngân hàng Nhà nước (2020). Báo cáo tại Hội nghị với doanh nghiệp “Cùng nỗ lực, vượt thách thức, đón thời cơ, phục hồi nền kinh tế”

4. Bùi Duy Hưng (2020). Chính sách tiền tệ trong bối cảnh Covid-19 ở một số nước phát triển và Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, số 16/2020

5. Dương Văn Bôn, Châu Đình Linh (2020). Một số lưu ý về hoạt động huy động vốn và cho vay của NHTM, Tạp chí Tài chính, kỳ 1, tháng 12/2020

6. Hà Anh (2021). Bất ngờ nợ xấu ngân hàng, truy cập từ https://tapchitaichinh.vn/ngan-hang/bat-ngo-no-xau-ngan-hang-331430.html

7. Ngân hàng Nhà nước (2021). Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng, truy cập từ https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/tk/dntddvnkt?_afrLoop=24473604635750224#%40%3F_afrLoop%3D24473604635750224%26centerWidth%3D80%2525%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D5f3f30lkx_4

(Bài được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 17, tháng 6/2021)