Tóm tắt

Nghiên cứu cho thấy, thời gian qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong tỉnh Nam Định, việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW (khóa XI) và Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) của Đảng đã đem lại hiệu quả thiết thực. Theo đó, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức (CB, CC) ở các cơ quan, đơn vị, địa phương trong Tỉnh từng bước được nâng lên, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính các cấp. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mạnh, thì chất lượng đội ngũ CB, CC tỉnh Nam Định vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Từ thực trạng nêu trên, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ này, đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Từ khóa: cán bộ quản lý, cán bộ, công chức, quản lý nhà nước

Summary

Research shows that under the determined leadership of the government in Nam Dinh province, the restructuring and consolidation of mass organizations in accordance with Resolutions No. 39-NQ/TW (11th term) and Central Resolution 6 (12th term) have brought tangible results. The quality of officials and civil servants in various agencies and localities in the province has gradually improved, contributing to enhancing the effectiveness of administrative machinery at all levels. However, alongside strengths, there are still limitations in the quality of officials and civil servants in Nam Dinh province. From the aforementioned situation, the article proposes solutions to enhance the quality of this workforce, contributing to the local socio-economic development.

Keywords: managerial officials, civil servants, state management

Giới thiệu

Đội ngũ CB, CC nhà nước là lực lượng tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch, bước đi, giải pháp và trực tiếp chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước và từng địa phương. Trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, ở bất kỳ lĩnh vực, địa phương nào, cán bộ bao giờ cũng đóng vai trò quyết định; công tác cán bộ không chỉ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, mà còn là mắt xích trọng yếu trong toàn bộ hoạt động của Đảng, nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.

Từ khi thực hiện đường lối Đổi mới toàn diện đất nước, đội ngũ CB, CC cả nước nói chung, tỉnh Nam Định nói riêng đã có nhiều đóng góp làm thay đổi diện mạo nền hành chính, tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Tuy nhiên, trước yêu cầu xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, vấn đề đặt ra là phải chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ CB, CC trong Tỉnh, nhằm đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CB, CC Ở TỈNH NAM ĐỊNH

Kết quả đạt được

Về số lượng và cơ cấu đội ngũ CB, CC

Đến nay, tỉnh Nam Định đã thực hiện xong việc sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức của 17 cơ quan chuyên môn thuộc UBND Tỉnh theo quy định tại Nghị định số 107/2020/NĐ-CP, ngày 14/9/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP, ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Bên cạnh đó, Tỉnh cũng đã cơ cấu tổ chức các cơ quan chuyên môn của UBND cấp huyện theo quy định tại Nghị định số 108/2020/NĐ-CP, ngày 14/9/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2014/NĐ-CP, ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở tỉnh Nam Định hiện nay
Các đại biểu tham dự lễ khai mạc kỳ thi tuyển dụng công chức tỉnh Nam Định năm 2023/Ảnh: Báo Nam Định

Theo đó, hiện nay, tỉnh Nam Định có 17 sở, ngành là cơ quan chuyên môn thuộc UBND Tỉnh với 137 phòng, ban, chi cục và tương đương, giảm 12 phòng, ban, chi cục (giảm 03 chi cục 1 và 9 phòng). Theo thống kê của Phòng Nội vụ (UBND tỉnh Nam Định), đến ngày 31/03/2023, tổng số CB, CC của UBND tỉnh Nam Định có 1.202 người. Đội ngũ CB, CC của UBND tỉnh Nam Định đã được tập trung xây dựng đồng bộ cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng nhất là nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị. Cụ thể như sau:

Phẩm chất của đội ngũ CB, CC

Về phẩm chất chính trị

Nhìn chung, đội ngũ CB, CC từ Tỉnh đến cơ sở có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần trách nhiệm và ý thức giữ gìn đoàn kết nội bộ; có lối sống lành mạnh; có khả năng nắm bắt và cụ thể hóa chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước, cũng như các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có kinh nghiệm chỉ đạo điều hành, vận động nhân dân và được nhân dân tín nhiệm.

Về phẩm chất đạo đức

Nhìn chung, phẩm chất đạo đức của CB, CC ở tỉnh Nam Định được đánh giá như sau: Giữ gìn đạo đức và lối sống lành mạnh, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và những biểu hiện tiêu cực khác, thực hiện các quy định về những việc CB, CC không được làm; Trung thực, khách quan, tận tụy, liêm khiết trong công việc; Có ý thức giữ gìn đoàn kết nội bộ; Có ý thức trong đấu tranh tự phê bình và phê bình, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh; Tận tụy với công việc, không hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà, khó khăn cho tổ chức, công dân trong thực hiện nhiệm vụ; Nhân ái, cảm thông, chia sẻ với đồng nghiệp và đối tượng quản lý. Có uy tín với đồng nghiệp, nhân viên và với đối tượng quản lý.

Về năng lực của đội ngũ CB, CC

Về năng lực chuyên môn trong vận dụng và hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Tỉnh

Đội ngũ CB, CC của tỉnh Nam Định hiện tại đa số là từ tuyển dụng mới, cán bộ địa phương, từ một số ngành chuyển sang… qua thực tiễn công tác ngày càng trưởng thành về mọi mặt. Đây là lực lượng chủ yếu thực thi các nhiệm vụ quản lý kinh tế, triển khai, cụ thể hoá các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, của cấp trên, vận dụng vào thực tiễn của địa bàn Tỉnh để tham mưu ban hành các chính sách của Tỉnh, xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hàng năm và các nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh về phát triển kinh tế – xã hội.

Trong những năm qua, nhờ có sự quan tâm xây dựng đội ngũ CB, CC của UBND tỉnh, đội ngũ CB quản lý nhà nước ngày càng được nâng cao năng lực vận dụng và hoạch định chính sách phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn. Nhờ đó, các chính sách phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn Tỉnh phù hợp với chủ trương, đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước ta nói chung, phù hợp với chủ trương phát triển của tỉnh uỷ, UBND tỉnh Nam Định nói riêng.

Về năng lực tổ chức quản lý trong thực hiện chính sách phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn Tỉnh.

Dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của UBND tỉnh Nam Định, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước trên địa bàn Tỉnh đã tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương chính sách đề ra về phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Tỉnh. Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước trên địa bàn Tỉnh đã tham mưu tổ chức triển khai có hiệu quả, trong đó tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiêp, dịch vụ và nông nghiệp; tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nâng cao thu nhập cho người lao động.

Về năng lực kiểm tra, giám sát thực thi chính sách phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Tỉnh

Công tác kiểm tra giám sát thực thi chính sách phát triển kinh tế - xã hội là một nhiệm vụ của đội ngũ CB, CC. Trong cơ chế kinh tế thị trường nhà nước tạo ra hành lang pháp lý, xây dựng cơ chế chính sách. Các thành phần kinh tế chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai, vì vậy, việc kiểm tra giám sát là hết sức quan trọng. Đối với tỉnh khi có các chương trình dự án được triển khai các phòng chức năng, các CB, CC của Tỉnh được phân công theo dõi, kịp thời uốn nắn chấn chỉnh để các tổ chức kinh tế đi đúng quỹ đạo quy định. Toàn bộ các chương trình dự án triển khai trên địa bàn Tỉnh những năm qua, hàng năm đều được kiểm tra, thẩm định, đánh giá tính khả thi, chất lượng và hiệu quả.

Một số khó khăn, hạn chế

Bên cạnh những điểm mạnh trên, chất lượng đội ngũ CB, CC tỉnh Nam Định vẫn còn một số hạn chế đó là:

Thứ nhất, trình độ, năng lực chuyên môn của một số cán bộ quản lý nhà nước còn hạn chế. Theo đó, có những CC chưa thể hiện được tính chuyên nghiệp, thiếu khả năng độc lập, quyết đoán trong giải quyết công việc, thiếu khả năng bao quát tình hình, còn thụ động trong thực thi nhiệm vụ, khả năng tư duy, dự báo, xây dựng chương trình kế hoạch, khả năng nghiên cứu tổng hợp, tinh thần trách nhiệm… còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước của Tỉnh.

Thứ hai, công tác quy hoạch CB, CC quản lý nhà nước còn hạn chế. Số lượng nguồn đưa vào quy hoạch chưa hợp lý, có hiện tượng “quy hoạch treo” (nghĩa là quy hoạch nhưng không thể bổ nhiệm). Như vậy, với thực tế biên chế các phòng ban của sở cũng như biên chế tại mỗi sở, nếu thực hiện mức tối đa thì chất lượng quy hoạch tất yếu sẽ không đảm bảo, sẽ trở thành “quy hoạch treo”. Trong thực tế, nhiều cơ quan thích quy hoạch ở mức tối đa để “tạo điều kiện” cho CB, CC phấn đấu, hoặc quy hoạch đại trà để khỏi mất đoàn kết nội bộ… Có thể thấy, quy hoạch theo quan niệm như vậy đã giảm tác dụng của chính công tác quy hoạch. Để khắc phục hiện tượng thiếu CB, CC đạt chuẩn để đưa vào quy hoạch, có thể quy hoạch chéo giữa các phòng trong cùng một sở hoặc liên kết quy hoạch CB, CC giữa các sở. Những phương thức này hiện chưa thực sự khả thi bởi tỉnh Nam Định chưa có hướng dẫn cụ thể.

Thứ ba, công tác đào tạo bồi dưỡng CB, CC ở một số cơ quan, đơn vị chưa được quan tâm đúng mức, nhất là đào tạo lý luận chính trị, bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới theo vị trí việc làm. Một số chế độ, chính sách đào tạo, tuy có được sửa đổi, bổ sung, nhưng vẫn còn khá lạc hậu, chưa thật sự động viên, khuyến khích CC đi học. Các khóa học sau đại học tuy có tăng về số lượng CC tham gia, nhưng chưa đồng bộ về cơ cấu ngành nghề, chưa phù hợp với nhu cầu công việc. Có một số CC được cử đi đào tạo bồi dưỡng cho biết nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng chưa được cập nhật thường xuyên, chưa gắn kết giữa lý luận với thực tiễn.

Thứ tư, trong quá trình tổ chức thực hiện kế hoạch luân chuyển, điều động, một số sở, ban, ngành Tỉnh có biểu hiện thiếu chủ động, lúng túng. Cụ thể là việc đề xuất luân chuyển CB, CC chậm, thiếu quyết liệt. Tính tiền phong gương mẫu của một số CB, CC trong thực hiện luân chuyển chưa cao. Một số CB, CC trong diện luân chuyển, điều động còn có tư tưởng ngại khó khăn, có nguyện vọng đề nghị tỉnh xem xét cho tiếp tục ở lại công tác tại các sở, ban, ngành. Một số ít CB, CC chưa thực sự yên tâm về tư tưởng, chưa xác định tốt nhiệm vụ, thiếu mạnh dạn trong thực thi nhiệm vụ, chưa hòa nhập được với một trường công tác mới, chưa góp phần tạo được sự đổi mới tích cực như mong muốn của lãnh đạo Tỉnh.

Thứ năm, chế độ, chính sách đối với CB, CC, nhất là về mức thu nhập, trong những năm qua, mặc dù đã được nâng lên, nhưng mới chỉ đáp ứng được những nhu cầu cơ bản nhất của CB, CC. Lương thấp khiến một số CB, CC chưa chuyên tâm công tác, dễ bị cám dỗ về tiền bạc trong thực thi nhiệm vụ.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CB, CC, CC ở tỉnh Nam Định hiện nay, theo tác giả, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục nâng cao chất lượng quy hoạch CB, CC

Để xây dựng được đội ngũ CB, CC đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn đến năm 2030, cần chuẩn bị sẵn sàng các ứng viên dự bị cho các chức danh trong bộ máy quản lý nhà nước của chính quyền, nhất là các chức danh CB, CC chủ chốt. Muốn vậy, cần chú trọng công tác phát hiện CB, CC trẻ có năng lực, được đào tạo chuyên môn bài bản, chính quy để tạo nguồn, sau đó mới tiến hành đào tạo bồi dưỡng để xây dựng nguồn CB, CC có đức, có tài, coi đó là nhiệm vụ chính của công tác quy hoạch cán bộ.

Quy trình quy hoạch CB, CC cần được cải tiến theo hướng sau:

- Quán triệt các quan điểm, đường lối, chủ trương và các hướng dẫn của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác quy hoạch CB, CC. Quy hoạch CB, CC cần thực sự “mở” và “động” hơn nữa. Để đảm bảo quy hoạch “mở” cần phải tiến hành quy hoạch dân chủ, công khai, không khép kín trong phạm vi một cơ quan, đơn vị mà phải kết hợp với quy hoạch của cấp trên, cấp dưới và mở rộng trong phạm vi ngành, địa phương để thu hút ứng viên tài năng. Quy hoạch thực sự “động” có nghĩa là một chức danh quy hoạch cho nhiều người và một người có thể được quy hoạch vào nhiều chức danh để tạo cơ hội bồi dưỡng cũng như thải loại người không đáp ứng yêu cầu. Hàng năm, cần nghiêm túc rà soát để đưa ra khỏi quy hoạch những CB, CC không đủ tiêu chuẩn, đồng thời bổ sung vào quy hoạch những CB, CC mới phát hiện đảm bảo điều kiện quy hoạch. Phương thức quy hoạch “động” sẽ buộc CB, CC phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, đồng thời có thể chủ động thu hút người mới, tài năng.

- Cụ thể hóa quy định tại các khâu của công tác quy hoạch. Cần chuẩn bị nguồn cán bộ ở tỉnh Nam Định đáp ứng yêu cầu về CB, CC cho giai đoạn dài hơi nhằm chuẩn bị nhân lực sẵn sàng đảm nhiệm nhiệm vụ nhất quán về thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy, việc xây dựng quy hoạch phải có tầm nhìn xa, có sự kế thừa, phát triển giữa các thế hệ CB, CC quản lý, có cơ cấu hợp lý, năng động. Muốn vậy, trước hết phải xây dựng quy hoạch cấp dưới làm cơ sở để phát hiện nguồn cho quy hoạch CB, CC cấp trên, căn cứ vào nhiệm vụ dài hạn để xây dựng đội ngũ CB, CC.

Chính quyền cấp trên cần chỉ đạo các cấp bên dưới thực hiện nghiêm túc quy hoạch CB, CC của từng cấp, cũng như hỗ trợ họ phát hiện, bồi dưỡng tài năng làm nguồn dự trữ CB, CC cho cấp trên. Chú ý khai thác nguồn sinh viên học giỏi từ các trường đại học nổi tiếng trong nước và nước ngoài để từng bước bồi dưỡng, lựa chọn người đủ tài đức đưa vào quy hoạch. Cũng cần chú ý CB, CC trưởng thành từ thực tiễn có tố chất, có kinh nghiệm và thành công đưa đi đào tạo để đưa vào nguồn quy hoạch.

Tiếp theo cần công khai các tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh CB, CC lãnh đạo, quản lý để giúp cho việc lựa chọn, giới thiệu nguồn quy hoạch thuận lợi hơn, công khai, minh bạch hơn. Danh sách CB, CC đã được cấp trên phê duyệt đưa vào quy hoạch phải được thông báo cho từng cá nhân CB, CC trong diện quy hoạch biết và giao nhiệm vụ cho CB, CC để CB, CC xác định rõ trách nhiệm, động lực, tích cực học tập, rèn luyện, phấn đấu vươn lên. Tôn trọng và thực hiện tốt việc tiến cử CB, CC của quần chúng.

Cán bộ đưa vào diện quy hoạch nên phân thành hai nhóm. Nhóm một là những người đã đạt tiêu chuẩn chức danh được quy hoạch, có thể bố trí, sử dụng ngay. Nhóm hai là những người cần phải đưa đi đào tạo bồi dưỡng để đạt tiêu chuẩn chức danh. Đối với nhóm hai, cần tiến hành rà soát quy hoạch hàng năm. Nếu CB, CC đã được đưa vào quy hoạch kỳ trước mà thiếu tiêu chuẩn chức danh, đến kỳ sau vẫn chưa tiến hành đào tạo bồi dưỡng thì tùy thuộc vào trách nhiệm của cơ quan hay của cá nhân CB, CC phải kiên quyết kiểm điểm, để quyết định việc có đưa ra khỏi quy hoạch hay không.

- Thực hiện quy hoạch một cách khoa học, tránh lãng phí. Để chủ động quy hoạch CB, CC, tỉnh cần tiến hành các công việc chuẩn bị, nhất là tiến hành đào tạo bồi dưỡng CB, CC. Đó là các công việc tốn kém thời gian và kinh phí nên cần được tính toán kỹ lưỡng.

Hai là, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng CB, CC

- Đào tạo bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp. Phải căn cứ vào quy hoạch CB, CC để có kế hoạch đào tạo phù hợp cho từng loại CB, CC trong quy hoạch. Bản thân CB, CC trong quy hoạch cũng phải được đào tạo theo tiêu chuẩn, chức danh, công việc mà họ được quy hoạch bổ nhiệm. Nên tích cực thực hiện các chương trình đào tạo theo chức danh CB, CC. Tránh hiện tượng cử CB, CC đi học cốt để có đủ bằng cấp, chứng chỉ, hoàn thiện hồ sơ cho dù chương trình bồi dưỡng không sát với công việc được giao, không thiết thực với người học, gây lãng phí thời gian, công sức của cả đơn vị và cá nhân.

Để khắc phục tình trạng cử đi học tràn lan, các cấp ủy đảng và cấp có thẩm quyền phê duyệt danh sách CB, CC được cử đi học phải xác định rõ nội dung đào tạo bồi dưỡng đối với từng người đi học. Sau đào tạo phải sử dụng CB, CC đúng trình độ họ đã đạt được, tranh tình trạng phân công công việc theo chỗ trống. Nên ưu tiên sử dụng CB, CC đã được đào tạo bồi dưỡng đúng chuyên môn, kỹ thuật. Kiên quyết chấm dứt tình trạng chưa được đào tạo đạt chuẩn đã bố trí sử dụng.

- Tiếp tục bồi dưỡng những kiến thức, những kỹ năng cần thiết mà CB, CC, CC cơ bản cần có để tập trung đào tạo bồi dưỡng, tuyệt đối tránh tình trạng chạy theo bằng cấp, chứng chỉ gây lãng phí thời gian, công sức và tiền bạc của cả cơ quan lẫn cá nhân.

- Thực hiện đào tạo bồi dưỡng CB, CC một cách linh hoạt, theo nhiều hình thức. Đào tạo, bồi dưỡng CB, CC theo hệ thống trường lớp chính quy. Đây là biện pháp cơ bản trong mục tiêu nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế cho trước mắt và lâu dài. Căn cứ vào yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, cần lần lượt cử nhiều đợt CB, CC đi học tại các trường nhằm đào tạo đạt chuẩn và đào tạo nâng cao. Hằng năm, rà soát chất lượng CB, CC để cử đi đào tạo bồi dưỡng. CB, CC thiếu kiến thức nào kịp thời bù đắp kiến thức đó. Đảm bảo 100% số CB, CC làm công tác nghiệp vụ có ít nhất một bằng cử nhân về chuyên môn, bằng (giấy chứng nhận) về trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước, các sở cần sắp xếp công việc để CB, CC luân phiên đi đào tạo tập trung hoặc tại chức.

- Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp để CB, CC tham gia các chương trình đào tạo bồi dưỡng theo chế độ bắt buộc. Đồng thời tạo điều kiện để CB, CC tự đào tạo nâng cao trình độ theo nhu cầu và tự nguyện. Đào tạo, bồi dưỡng CB, CC là để sử dụng, muốn sử dụng tốt thì phải đào tạo bồi dưỡng.

Vì vậy phải gắn đào tạo với quy hoạch và sử dụng. Đào tạo, bồi dưỡng phải được thực hiện theo kế hoạch, theo địa chỉ, theo tiêu chuẩn công chức, phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ. Thực hiện việc bố trí công chức phải theo chuyên ngành được đào tạo. Cần có quy định cụ thể về chế độ tự học, tự đào tạo, quy định chế độ và thời gian đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ trong nhiệm kỳ. Cơ quan quản lý CB, CC là nơi tổ chức đánh giá, theo dõi quá trình phát triển của CB, CC. Hàng năm cần có sơ kết, tổng kết đánh giá kiểm tra đối với mỗi CB, CC để có hướng đào tạo bồi dưỡng tiếp theo.

Ba là, nâng cao chất lượng tuyển chọn, bố trí, sử dụng đội ngũ CB, CC

- Nâng cao chất lượng công tác tuyển chọn cán bộ làm cơ sở cho việc hình thành đội ngũ CB, CC, CC có chất lượng cao. Tiếp tục duy trì tính khách quan, công khai, minh bạch trong thi tuyển công chức để tạo cơ hội đồng đều cho tất cả mọi thành viên, tạo cơ hội thu hút nhân tài cho các cơ quan nhà nước. Về nội dung thi tuyển, ngoài các môn thi về kiến thức chung, chuyên ngành, tin học, ngoại ngữ, cần nghiên cứu bổ sung khâu phỏng vấn trong thi tuyển đối với cán bộ quản lý nhà nước, vì trong công tác quản lý cần coi trọng kỹ năng giao tiếp, ứng xử, diễn đạt với cấp trên, cấp dưới, hơn nữa, công chức ở các sở, thường có quan hệ với nhiều cá nhân, tổ chức và các cơ quan Trung ương cũng như địa phương đóng trên địa bàn, nên kỹ năng giao tiếp, ứng xử rất quan trọng. Mặc dù bài thi viết về chuyên ngành phản ánh tốt tri thức của ứng viên, nhưng khi thi vấn đáp thì người dự tuyển có điều kiện thể hiện hơn nữa sự am hiểu về ngành, lĩnh vực tham gia dự tuyển, để công chức tuyển chọn bước đầu đánh giá được năng lực thể hiện qua kỹ năng nói, viết, hiểu, xử lý nhanh hay chậm của người dự tuyển.

Đối với công chức lãnh đạo quản lý, công tác tuyển chọn cần tiến hành theo hình thức thi tuyển cạnh tranh nhằm phát hiện và thu hút, trọng dụng những người có đức, có tài, có khả năng đóng góp sức lực và trí tuệ cho sự phát triển kinh tế.

- Thực hiện bố trí, sử dụng CB, CC hợp lý nhằm phát huy năng lực, sở trường của CB, CC. Muốn vậy, cần tập trung thực hiện những công tác sau:

- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, của CB, CC chủ trì trong việc bố trí, sử dụng CB, CC. Công tác bố trí và sử dụng CB, CC phải được thống nhất trong cấp ủy và đội ngũ CB, CC lãnh đạo. Phải chú trọng cả năng lực chuyên môn và năng lực tổ chức điều hành của CB, CC.

Bốn là, hoàn thiện chính sách đãi ngộ đối với CB, CC và nâng cao năng lực tinh thần trách nhiệm của những người làm công tác quản lý CB, CC

Hoàn thiện chính sách đãi ngộ đối với cán bộ. Trong điều kiện kinh phí còn eo hẹp, khó có thể cải thiện nhanh thu nhập của cán bộ. Tuy nhiên, chế độ lương phải đảm bảo mức trung bình của xã hội về phương tiện vật chất. Cần kết hợp nhiều nguồn thu để có thể từng bước tăng thu nhập cho cán bộ.

Trong khi điều kiện vật chất còn khó khăn, cần động viên tinh thần cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế theo các hình thức phù hợp, nhất là trao tặng đúng thực chất các danh hiệu cao quý được xã hội thừa nhận. Có chế độ đối xử trân trọng đối với những người được trao tặng danh hiệu cao quý.

Chú trọng công tác vận động, giáo dục, tuyên truyền để CB, CC nhận thức đúng và đầy đủ tình hình của đơn vị, động viên họ chung tay gánh vác nhiệm vụ chung, coi đó là đạo đức tốt đẹp của cán bộ. Phê phán những cán bộ cơ hội, trì trệ, ỷ vào người khác, là gánh nặng cho đơn vị.

Quan tâm chỉnh sửa, bổ sung các chế độ, chính sách đã lỗi thời. Cần đặt chế độ, chính sách đối với cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế trong mặt bằng chung của cả nước. Khuyến khích thực hiện khoán chi hành chính để tiết kiệm kinh phí quản lý hành chính, tạo quỹ tăng thu nhập cho cán bộ.

Bên cạnh việc tìm cách tăng thu nhập cho cán bộ cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế, cần đổi mới công tác khen thưởng, tránh khen trưởng theo kiểu bình quân, hình thức. Việc xem xét khen thưởng phải căn cứ vào kết quả, chất lượng hoàn thành công việc và mang tính khuyến khích cao. Nên đa dạng hoá hình thức khen thưởng./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII (2021), Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

2. Ban Chấp hành Trung ương (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật.

4. Nguyễn Phú Trọng (2023), Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta trong sạch, vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 27.

5. Nguyễn Phú Trọng (2024), Một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIV của Đảng, truy cập từ tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem /asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/mot-so-van-de-can-duoc-dac-biet-quan-tam-trong-cong-tac-chuan-bi-nhan-su-dai-hoi-xiv-cua-dang.

6. Phòng Nội vụ (UBND tỉnh Nam Định) (2023), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng chính quyền.

7. UBND tỉnh Nam Định (2022), Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình đến năm 2022.

8. UBND tỉnh Nam Định (2020), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Nam Định các năm 2020.

9. Vũ Văn Hiền (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb. Chính trị Quốc gia.

ThS. Trần Quang Ninh

Ban Tổ chức Trung ương

Ngày nhận bài: 23/3/2024; Ngày phản biện: 31/3/2024; Ngày duyệt đăng: 6/4/2024