Hàng chục ngàn lao động Việt Nam bỏ trốn không về nước

Theo Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, mặc dù tỷ lệ lao động bỏ hợp đồng, cư trú bất hợp pháp có giảm so với những năm trước đây nhưng vẫn ở mức cao. Điển hình như tại thị trường Hàn Quốc, năm 2012, tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn sau khi hết hạn hợp đồng, ở lại bất hợp pháp tại quốc gia này là 55,76%. Trước tình hình này, Hàn Quốc đã tạm thời dừng thực hiện Bản thỏa thuận tiếp nhận thông thường lao động Việt Nam. Tỷ lệ bỏ trốn giảm từ 47% vào cuối năm 2013, xuống còn khoảng 35% vào cuối năm 2015.

Hàn Quốc có 16 nước phái cử lao động tới làm việc, tỷ lệ bỏ trốn trung bình là 8%-9%, nhiều nhất 15%-16%; số lao động Việt Nam bỏ trốn “đứng đầu” và chiếm 32% tổng số lao động nước ngoài đang lao động và cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc.

Xuất khẩu lao động bỏ trốn bất hợp pháp vẫn chưa có dấu hiệu "hạ nhiệt"

Tháng 05/2016, Hàn Quốc “quay lại” với Bản thỏa thuận tiếp nhận thông thường lao động VN trong 2 năm, đến 05/2018. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn vẫn tăng lên.

Theo Trung tâm lao động ngoài nước (Bộ Lao động, Thương binh và xã hội), hiện có khoảng 40.000 lao động Việt Nam đang làm việc tại Hàn Quốc. Tính đến hết tháng 12/2016, số lao động cư trú bất hợp pháp là hơn 16.000 người, chiếm 39%.

Ngày 28/03/2017, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã thông báo tạm dừng tuyển chọn lao động sang Hàn Quốc làm việc trong năm 2017 tại một số địa phương. Theo đó, 109 quận/huyện có tỉ lệ lao động hết hạn hợp đồng nhưng không về nước trên 30% thuộc diện đưa vào xem xét; 58 quận/huyện có số lượng lao động cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc từ 60 người trở lên trong số 109 quận/huyện nêu trên thì bị đưa vào danh sách tạm dừng.

Nguy cơ phía Hàn Quốc lại dừng hoặc dừng hẳn tiếp nhận lao động Việt Nam – họ đang đề nghị tỷ lệ dưới 30% và tiến tới bằng các nước khác - là có thực và ngày càng hiện hữu. Chừng 50.000 lao động trong nước đang “xếp hàng” để chờ sang Hàn Quốc, đã bị ảnh hưởng trực tiếp từ nguy cơ này.

Theo ông Đặng Sỹ Dũng, Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước, cho biết: “Tỷ lệ lao động Việt Nam hết hạn hợp đồng vẫn ở lại Hàn Quốc cư trú bất hợp pháp là việc khiến cơ quan quản lý đau đầu. Nếu không có quan hệ tốt đẹp lẫn sự cảm thông giữa hai bên mà cứ thẳng thừng như bản ghi nhớ về phái cử lao động đi làm việc (MOU), thì với tỷ lệ cư trú bất hợp pháp cao và yêu cầu phía Hàn Quốc đặt ra, lao động Việt Nam khó có cơ hội sang Hàn Quốc”.

Các giải pháp đã được Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thực hiện, ngoài việc mới có từ năm 2013 là thực hiện ký quỹ 100 triệu đồng, thì vẫn chỉ dừng ở mức “đề nghị các cơ quan chức năng và các cấp chính quyền vào cuộc một cách mạnh mẽ, quyết liệt trong việc tuyên truyền, vận động gia đình và bản thân người lao động chấp hành đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng và các quy định của Chính phủ Việt Nam và Hàn Quốc”.

Không riêng thị trường Hàn Quốc, tại thị trường Đài Loan (Trung Quốc) hiện nay cũng có khoảng 26.500 lao động Việt Nam bỏ hợp đồng, cư trú và làm việc bất hợp pháp, chiếm gần 50% tổng số lao động nước ngoài bỏ hợp đồng và chiếm gần 15% số lao động Việt Nam đang làm việc tại Đài Loan. Không chỉ bỏ trốn và cư trú bất hợp pháp, số lao động Việt Nam vi phạm pháp luật sở tại cũng có xu hướng tăng lên.

Lỗi do đâu?

Lý do lao động Việt Nam bỏ trốn, không chịu về nước, chủ yếu do mức lương ở các quốc gia này đều khá cao. Điển hình như tại Hàn Quốc, thu nhập từ 25 đến 30 triệu đồng, có người lên đến 40-50 triệu đồng/tháng. Các nhà máy địa phương, công trường xây dựng ở Hàn Quốc rất nhiều nên người lao động dễ tìm việc. Các ông chủ cần một lượng lớn nhân công, kể cả tay nghề không cao, nên vẫn chấp nhận thuê lao động bất hợp pháp.

Trong khi đó, biện pháp ký quỹ ở quê nhà thì chỉ áp dụng từ năm 2013, trong khi nhiều lao động bỏ trốn đi từ trước thời điểm trên và không chịu ảnh hưởng của việc ký quỹ. Thậm chí, trong suy nghĩ của lao động bất hợp pháp, thì đi làm khoảng nửa năm là bù lại được tiền ký quỹ hay tiền phạt. Rồi nếu trốn ở lại, làm càng lâu, số tiền kiếm được càng nhiều hơn.

Bên cạnh đó, vẫn còn không ít doanh nghiệp chưa thực hiện đúng cam kết với người lao động, thu phí của người lao động quá cao, thậm chí có cả “phí môi giới”...

Đó là chưa kể một số doanh nghiệp tuyển chọn lao động thông qua các khâu trung gian nên không kiểm soát được chất lượng lao động và không quản lý được việc thu tiền của người lao động. Chính vì phải bỏ ra một khoản tiền khá lớn trước khi sang nước ngoài làm việc nên nhiều lao động Việt Nan luôn luôn có tâm lý là phải kiếm thật nhiều tiền để “thu hồi vốn”, bất chấp việc vi phạm pháp luật nước sở tại.

Bên cạnh đó, một trong các hình thức “cưỡng chế” đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài là bắt họ phải ký quỹ, đặt cọc..., vô hình trung lại tạo ra cái vòng luẩn quẩn và “kích thích” người lao động bỏ trốn nhiều hơn.

Ý kiến nhiều chuyên gia cũng cho rằng chính khoản tiền ký quỹ này như một gánh nặng đối với lao động phải đầu tư ban đầu, càng làm cho lao động tìm cách bỏ ra ngoài làm việc nhằm trang trải nợ nần.

Cùng với đó sự thiếu đồng bộ trong hành lang pháp lý, cùng với thủ tục trình tự xét xử phức tạp, việc tìm kiếm lao động bỏ trốn ở nước ngoài để đưa ra tòa không hề đơn giản, cho nên đến nay hầu như chưa có trường hợp lao động bỏ trốn nào bị đưa ra tòa.

Về vấn đề này, tại Hội nghị Nâng cao chất lượng hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng tổ chức vào ngày 08/03/2017, Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, ông Doãn Mậu Diệp thừa nhận: Một số hành vi vi phạm, nhưng chưa được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật, nên thiếu căn cứ để xử lý; còn có những quy định của pháp luật chưa đồng bộ, nên chưa điều chỉnh hết các quan hệ xã hội phát sinh trong thực tiễn; ngoài ra còn có sự xung đột pháp luật giữa nước tiếp nhận với quy định của Việt Nam.

Cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ

Các chuyên gia cho rằng, để hạn chế tình trạng lao động bỏ trốn bất hợp pháp, cần siết lại quy định trong tuyển chọn lao động, nâng mức chế tài không chỉ đối với doanh nghiệp có lao động bỏ trốn cũng như thu phí của người lao động cao hơn mức quy định của pháp luật mà với cả người lao động nếu có hành vi phá vỡ hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm ăn phi pháp.

Bên cạnh đó, giải pháp căn cơ vẫn là khắc phục những bất cập được cho là nguyên nhân khiến lao động bỏ trốn, đó là nâng thời hạn hợp đồng xuất khẩu lao động, cho người lao động đi làm việc 5 năm thay vì mức thông thường là 3 năm như hiện nay. Được như vậy, người lao động sẽ yên tâm làm việc, không có tâm lý trốn chui, trốn lủi ở nước sở tại để kiếm thêm tiền.

Bên cạnh đó, cần có chính sách hỗ trợ vay vốn với lãi suất thấp cho đối tượng lao động xuất khẩu. Đồng thời, giảm các thủ tục xuất - nhập cảnh… nhằm hạn chế việc lao động bỏ trốn để làm thêm, vì đã phải vay lãi cao phục vụ cho việc đi lao động nước ngoài.

Ngoài ra, cần quan tâm tạo việc làm cho người lao động khi họ trở về nước, nên chăng gắn trách nhiệm giới thiệu việc làm cho lao động xuất khẩu về nước đối với các danh nghiệp xuất khẩu lao động./.