Chưa thể hiện sự bứt phá trong tăng trưởng chung

Báo cáo tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, tình hình kinh tế thế giới có nhiều thay đổi nhanh, phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro, thách thức, tăng trưởng kinh tế chậm, thương mại toàn cầu suy giảm, căng thẳng thương mại diễn biến khó lường.

Các tổ chức quốc tế đều điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới, trong đó, Ngân hàng Thế giới (WB) hạ dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu xuống 2,6% trong năm 2019, giảm 0,3 điểm phần trăm so với dự báo trước đó.

Trong bối cảnh đó, các tổ chức quốc tế vẫn có đánh giá tích cực về triển vọng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam, trong đó WB và IMF dự báo tăng 6,6%, ADB dự báo tăng 6,8% trong năm 2019.

Tuy nhiên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cảnh báo: “Các động lực tăng trưởng đang chạm ngưỡng, có dấu hiệu suy giảm (sản xuất công nghiệp tăng chậm, đầu tư giải ngân thấp, xuất khẩu sang Trung Quốc suy giảm, nhất là xuất khẩu nông sản, tác động của tình trạng nắng nóng kéo dài tới ngành trồng trọt, dịch tả lợn châu Phi tới ngành chăn nuôi, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng chậm lại...)”.

Do vậy, dù nhận định, tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm đạt 6,76% là rất tích cực so với tăng trưởng chung của thế giới và khu vực, tuy nhiên, chưa đạt mục tiêu kịch bản cao đã đề ra.

“Chưa thể hiện sự bứt phá trong tăng trưởng chung cũng như trong từng ngành, lĩnh vực, các động lực hỗ trợ tăng trưởng chưa thực sự rõ nét, nền kinh tế còn gặp khó khăn, thách thức trong 6 tháng cuối năm, nhất là cầu thế giới giảm tác động không nhỏ đến xuất khẩu và sản xuất, kinh doanh trong nước”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng chỉ rõ.

Một số ngành vốn tạo động lực tăng trưởng cho nền kinh tế như: điện thoại, điện tử… không còn duy trì được tốc độ tăng trưởng ấn tượng như giai đoạn trước, đi kèm với sự giảm tốc theo lộ trình của ngành khai khoáng.

Theo phân tích của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, động lực tăng trưởng từ phía doanh nghiệp Samsung còn là một ẩn số trước những lo ngại về mức giảm quy mô sản xuất của doanh nghiệp này so với cùng kỳ.

Thách thức cạnh tranh mà Samsung gặp phải trên thị trường toàn cầu có thể khiến doanh nghiệp sụt giảm tăng trưởng tác động, làm cho ngành công nghiệp chế biến dù vẫn trong xu hướng tiếp tục cải thiện song mức độ tích cực sẽ chậm lại so với cùng kỳ.

Bên cạnh đó, lĩnh vực sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều rào cản. Sự gắn kết với khu vực FDI và năng lực, hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn hạn chế.

Đặc biệt, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xuất khẩu nông sản được dự báo sẽ gặp còn đối mặt với nhiều thách thức, khiến khu vực nông, lâm thủy sản khó có thể đạt mức tăng trưởng cao như cùng kỳ do nhiều nguyên nhân, trong đó có 2 nguyên nhân chính là:

(1) Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế thế giới 2019 dự báo giảm và các nước trên thế giới đều quay lại tập trung đầu tư cho phát triển nông nghiệp;

(2) Các mặt hàng nông sản Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt trong xuất khẩu, khiến cho giá giảm sâu trong khi đó, các nước nhập khẩu nông sản lớn của Việt Nam như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… đều gia tăng bảo hộ hàng hóa nông sản thông qua các tiêu chuẩn về quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, yêu cầu truy xuất nguồn gốc.

Cùng với đó, việc giải ngân vốn đầu tư công, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn ở nhiều bộ ngành, địa phương chậm cũng là thách thức không nhỏ.

Ngoài ra, còn sức ép lạm phát do tác động của nhiều yếu tố: như giá dầu thế giới có xu hướng tăng, tình hình thời tiết diễn biến xấu và dịch bệnh có thể làm tăng giá nhóm hàng hóa lương thực, thực phẩm. Tuy nhiên, cũng có những yếu tố giúp kiềm chế tốc độ tăng CPI trong thời gian tới như công tác điều hành giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý đã được các bộ, ngành địa phương phối hợp chặt chẽ và thực hiện đồng bộ các biện pháp góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI. Các bộ, ngành địa phương thực hiện các chương trình bình ổn thị trường, tổ chức kiểm tra, kiểm soát thị trường giá cả. Việc điều hành tỷ giá trung tâm linh hoạt giúp ổn định thị trường ngoại tệ góp phẩn đảm bảo mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.

Áp lực tỷ giá vẫn rất lớn và đến từ nhiều phía, trong khi điều hành chính sách tỷ giá đang gặp khó, một mặt đối diện với việc giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá nếu VND không có mức giảm giá phù hợp, mặt khác lại đối diện với rủi ro bị gắn nhãn “quốc gia thao túng tiền tệ” nếu đồng VND giảm giá quá mức.

Bên cạnh đó, tình hình thời tiết, khí hậu, dịch bệnh diễn biến bất thường, kéo dài từ đầu năm tiếp tục là nguy cơ thường trực cần hết sức lưu tâm để có biện pháp phòng, ngừa, ứng phó kịp thời.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận định, động lực tăng trưởng từ phía doanh nghiệp Samsung còn là một ẩn số

Để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2019 ở mức 6,8%

Chỉ rõ, quý III là quý rất quan trọng, có tính chất quyết định, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, với mục tiêu tăng tốc, tốc độ tăng trưởng ít nhất đạt 6,91%, đồng thời duy trì mục tiêu hàng đầu là ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững.

Do đó, theo Bộ trưởng Dũng cần tập trung phát huy các dư địa của động lực hỗ trợ tăng trưởng trong từng ngành, lĩnh vực, địa phương, từng dự án lớn, trọng điểm.

Đối với khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, bên cạnh việc tiếp tục các giải pháp phòng, chống dịch tả lợn Châu Phi, cần chuẩn bị sẵn các điều kiện để nhanh chóng tái đàn, phục hồi, ổn định sản xuất. Phát huy tốt đà tăng trưởng của ngành thủy sản gắn với ổn định và phát triển thị trường xuất khẩu nông sản nói chung và thủy sản nói riêng, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của thị trường quốc tế.

Công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn giữ vai trò động lực chính của tăng trưởng, nhưng không đạt tốc độ bứt phá như cùng kỳ năm 2018, do nhiều ngành chiếm tỷ trọng lớn không còn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao như ngành sản xuất sản phẩm máy tính, điện thoại di động, linh kiện điện tử, dệt, may, da giày... Mặc dù vậy, cần tập trung phát huy dư địa động lực đối với các dự án lớn đã và mới đi vào hoạt động như Lọc hóa dầu Nghi Sơn, Formosa Hà Tĩnh, Khu liên hợp gang thép Hòa Phát Dung Quất, nhà máy ô tô VinFast..., đẩy nhanh tiến độ các dự án FDI đăng ký mới trong lĩnh vực chế biến, chế tạo, chiếm tỷ trọng tới 73,4% tổng vốn FDI đăng ký trong 6 tháng đầu năm.

Các ngành dịch vụ tăng trưởng ổn định ở mức khá, nhưng dư địa còn nhiều, nhất là phát triển dịch vụ có hàm lượng giá trị gia tăng cao, dịch vụ tích hợp, ứng dụng công nghệ hiện đại; khẩn trương hoàn thiện khung khổ pháp lý và quản lý hiệu quả các hoạt động dịch vụ mới (như casino, cá cược,…); thí điểm thành công các mô hình thanh toán mới, các doanh nghiệp công nghệ tài chính (fintech), áp dụng hiệu quả các công nghệ mới, giải pháp đổi mới sáng tạo vào lĩnh vực ngân hàng;… Việc phát triển các dịch vụ mới kết hợp với phát triển dịch vụ du lịch bền vững, có chất lượng, thu hút mạnh mẽ khách du lịch quốc tế và trong nước có thể giúp khu vực dịch vụ tăng trưởng ở mức cao hơn 7%, đáp ứng yêu cầu mục tiêu tăng trưởng trong cả ngắn hạn và dài hạn.

Thứ hai, cần khẩn trương đẩy mạnh triển khai các giải pháp nhằm phát triển sản xuất kinh doanh trong từng ngành, lĩnh vực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong những tháng cuối năm.

Thứ ba, tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất, giảm chi phí đầu vào, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đơn giản hóa hoặc giảm bớt quy định về điều kiện kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp gia nhập thị trường. Đồng thời, các bộ, ngành và địa phương cần phối hợp để thực hiện đồng bộ những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; tạo điều kiện cho doanh nghiệp có sự chuẩn bị tốt về vốn, công nghệ, thị trường và khả năng kết nối với doanh nghiệp FDI để đón đầu các hiệp định thương mại mới.

Thứ tư, đẩy mạnh tăng trưởng xuất nhập khẩu. Lựa chọn các mặt hàng có thế mạnh để xúc tiến xuất khẩu vào các thị trường theo từng giai đoạn cụ thể nhằm phát triển thị trường xuất khẩu theo hướng đa dạng hóa thị trường, tìm kiếm khả năng mở rộng các thị trường xuất khẩu mới còn tiềm năng đồng thời củng cố và mở rộng thị phần hàng hóa Việt Nam tại thị trường truyền thống, thị trường là đối tác FTA. Tiếp tục tăng cường thông tin, tuyên truyền, tổ chức tập huấn, nâng cao năng lực nghiệp vụ, hướng dẫn kịp thời về xuất xứ hàng hóa cho doanh nghiệp dự kiến xuất khẩu đi thị trường các nước FTA nói chung và các nước thành viên CPTPP nói riêng; trong đó, chú trọng phối hợp với các Hiệp hội, ngành hàng và địa phương để tập huấn quy tắc xuất xứ theo nhóm hàng hoặc theo thế mạnh xuất khẩu của từng địa phương. Tiếp tục đơn giản hóa, hiện đại hóa hoạt động cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O). Tăng cường các biện pháp chống gian lận xuất xứ để bảo vệ các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam trước rủi ro của những vụ kiện chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Tăng cường công tác hậu kiểm tại tổ chức cấp C/O và các doanh nghiệp đề nghị cấp C/O. Chủ động phối hợp với cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu trong trường hợp có yêu cầu xác minh xuất xứ nhằm phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp mượn xuất xứ Việt Nam để tránh việc giả mạo xuất xứ.

Thứ năm, tăng cường công tác quản lý chất lượng, đẩy nhanh tiến độ thi công, giải ngân các dự án; đặc biệt là các dự án trọng điểm, quy mô lớn, có sức lan tỏa. Tăng cường kiểm tra, đôn đốc các khâu: chuẩn bị thực hiện dự án, lựa chọn nhà thầu, giải ngân, thanh quyết toán vốn đầu tư; chủ động tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án chậm giải ngân, bảo đảm tiến độ thi công công trình.

Thứ sáu, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và cung cấp dịch vụ công và trong công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ; tạo sự bứt phá về xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số và nền kinh tế số nhằm phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn.

Thứ bảy, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền theo hướng công khai, minh bạch, kịp thời và hiệu quả. Chủ động truyền thông về các giải pháp điều hành của Chính phủ; phổ biến, giải thích chính sách pháp luật; thông tin đầy đủ, kịp thời về các vấn đề được dư luận, xã hội quan tâm để doanh nghiệp, người dân hiểu và chia sẻ nhằm tạo sự đồng thuận trong thực thi chính sách, pháp luật./.