Tóm tắt

Bốn năm qua, mặc dù tình hình kinh tế, chính trị thế giới có nhiều biến động; chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, xung đột quân sự Nga - Ukraina chưa có hồi kết, thậm chí ngày càng gia tăng, song kinh tế Việt Nam đã có sự phục hồi và phát triển khả quan. Trong phạm vi bài viết, nhóm tác giả phân tích tình hình phát triển kinh tế trong 4 năm 2020-2023 và dự báo cho năm 2024.

Từ khóa: kinh tế Việt Nam 2020-2023, khu vực kinh tế chủ yếu, dự báo kinh tế năm 2024

Abstract

Over the past four years, although the world's economic and political situation has been volatile; The US-China trade war, the Russia-Ukraine military conflict have no end, and are even increasing; However, Vietnam's economy has recovered and developed positively. Within the scope of the article, the author analyzes the four-year economic development situation 2020-2023 and forecasts for 2024.

Keywords: Vietnam economy, main economic areas, forecast for 2024

GIỚI THIỆU

Trong thời gian qua, Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế thông qua các hoạt động kết nối với ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… tham gia sâu vào các thể chế quốc tế lớn, như: Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), đặc biệt là tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Từ đó, giúp cho việc tăng cơ hội tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu. Điều này đã có tác động và tạo điều kiện rất lớn đối với các hoạt động phối hợp, liên kết giữa các địa phương, các ngành kinh tế trong cả nước; tạo thuận lợi về giao lưu kinh tế và hội nhập quốc tế; là những nơi có thế mạnh trong quá trình hội nhập, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), tiếp nhận chuyển giao công nghệ, thuận lợi trong xuất, nhập khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, cũng chịu sức ép cạnh tranh trực tiếp và gay gắt không chỉ từ các quốc gia phát triển mà còn cả với các quốc gia tương đồng. Hội nhập kinh tế đòi hỏi từng địa phương và từng bộ, ngành phải nắm được những thế mạnh, tiềm năng, sự khác biệt của từng nơi để có sự sắp xếp và phân công lao động hợp lý nhằm phát triển bền vững.

Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng là một trong những điều kiện căn bản để Việt Nam có nhiều cơ hội, tăng thêm nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội. Hàng năm, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam ngày càng đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng; nhiều chương trình hợp tác quốc tế đem lại lợi ích to lớn cho các bên liên quan. Đây là những nguồn lực quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.

MỘT SỐ NÉT CHÍNH VỀ KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2020-2023

Trong giai đoạn 2020-2023, tình hình kinh tế, chính trị thế giới có nhiều biến động phức tạp, cùng với đại dịch Covid-19 và biến đổi khí hậu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế của tất cả các nền kinh tế tới. Song, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, kinh tế nước ta vẫn có nhiều điểm tích cực so với nhiều nền kinh tế trên thế giới.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, GDP năm 2020 đạt 2,91%, với quy mô 268,4 tỷ USD. Đây là mức tăng thấp nhất trong vòng 10 năm 2011-2020, song thuộc nhóm tăng trưởng cao nhất trên thế giới. Năm 2021, kinh tế Việt Nam đã cán đích với mức tăng trưởng GDP là 2,58%, thấp hơn 0,33% so với năm 2021. Đây là mức thấp nhất trong giai đoạn 2011-2021.

Năm 2022, cùng với cả thế giới, kinh tế Việt Nam phải đối đầu với những biến động khó lường, như: xung đột quân sự Nga - Ukraina dẫn đến nhiều hệ lụy ảnh hưởng tiêu cực đến các nền kinh tế trên thế giới, trong đó có Việt Nam; việc đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu do đại dịch Covid-19, sự tăng vọt của giá cả hàng hóa, nguyên vật liệu đầu vào… Song, do Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách phù hợp, đặc biệt là thực hiện khẩu hiệu “vừa chống dịch vừa phục hồi sản xuất, kinh doanh, thực hiện mục tiêu kép”, kinh tế đã có bước phục hồi tích cực; kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát; GDP tăng ở mức 8,02% so với năm 2021, cao nhất trong 10 năm qua; quy mô đạt 9.513 triệu tỷ đồng, tương đương 391,92 tỷ USD; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành năm 2022 đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110 USD, tăng 393 USD so với năm 2021; năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2022 theo giá hiện hành đạt 188,1 triệu đồng/lao động, tương đương 8.083 USD, tăng 622 USD so với năm 2021. Theo giá so sánh, năng suất lao động năm 2022 tăng 4,8% do trình độ của người lao động được cải thiện.

Năm 2023, nhìn chung đã đạt được những mục tiêu lớn cơ bản; kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức 4,16%, thị trường tiền tệ và tỷ giá hối đoái cơ bản ổn định mặc dù thị trường tài chính, tiền tệ thế giới có nhiều biến động lớn; các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo. Theo Tổng cục Thống kê, GDP năm 2023 tăng 5,05% so với năm 2022, cao hơn tốc độ tăng của năm 2020 và 2021 - thời điểm chịu ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19.

Cụ thể, kết quả đạt được về tăng trưởng của các khu vực trong nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2020-2023 như sau:

Tăng trưởng của các khu vực kinh tế chủ yếu

Khu vực công nghiệp và xây dựng

Năm 2020, khu vực công nghiệp và xây dựng đạt tốc độ cao nhất với 3,98%, đóng góp 1,2 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò chủ chốt, dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với mức tăng 5,82%, đóng góp 1,25 điểm phần trăm. Chỉ số sản xuất công nghiệp của một số ngành, như: sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu; sản xuất kim loại, sản xuất than cốc; sản phẩm dầu mỏ tinh chế; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng với tốc độ tương ứng là 27,1%, 14,4%, 11,4% và 11,3%, góp phần đưa ngành sản xuất chế biến, chế tạo tăng trưởng khả quan trong bối cảnh dịch Covid-19 bùng phát mạnh, làm đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu.

Năm 2021, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp là 4,82% so với năm 2020; Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,37%, đóng góp 1,67 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5%.

Năm 2022, khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 8,1%, đóng góp 2,09 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,45%, đóng góp 0,04 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 7,05%, đóng góp 0,26 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 5,19%, đóng góp 0,17 điểm phần trăm; ngành xây dựng tăng 8,17%, đóng góp 0,59 điểm phần trăm.

Năm 2023, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,74%, đóng góp 28,87%. Tuy nhiên, trong khu vực này, ngành công nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh tổng cầu thế giới suy giảm. Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp chỉ với mức 3,02% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 1 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,62%, đóng góp 0,93%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý chất thải, nước thải tăng 5,18%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành xây dựng tăng 7,06%, đóng góp 0,51 điểm phần trăm.

Khu vực vực nông, lâm nghiệp và thủy sản

Năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng một số cây lâu năm, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu và sản phẩm tôm tăng khá đã đưa tốc độ tăng của khu vực này đạt 2,68%, cao hơn năm 2019 (năm 2019 là 2,01%). Mặc dù thẻ vàng EC trong khai thác thủy sản chưa được gỡ bỏ và tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, nhưng kết quả tăng trưởng của khu vực này rất khả quan với sự nỗ lực đổi mới cơ cấu cây trồng, mùa vụ. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 2,55% (tăng hơn năm 2019 là 1,64%); ngành lâm nghiệp tăng 2,82% (giảm so với năm 2019 là 2,16%) và ngành thủy sản tăng 3,08% (giảm so với năm 2019 là 3,22%).

Năm 2021, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,9%, đóng góp 13,97 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế; kết quả hoạt động của ngành nông nghiệp đã thể hiện rõ vai trò “trụ đỡ” của nền kinh tế, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu, là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện an sinh xã hội trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và tình hình thiên tai, biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng.

Năm 2022, khu vực nông, lâm thủy sản tiếp tục tăng mạnh 3,36%, đóng góp 5,11 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế. Riêng ngành nông nghiệp tăng 2,88%, đóng góp 0,27 điểm phần trăm; ngành lâm nghiệp tăng 6,13%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 4,43%, đóng góp 0,12 điểm phần trăm.

Năm 2023, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản duy trì ở mức tăng khá và có nhiều ứng dụng công nghệ cao. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng 3,88% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,34 điểm phần trăm; ngành lâm nghiệp tăng 3,74%, nhưng do tỷ trọng của ngành này thấp hơn, nên chỉ đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3,71%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.

Khu vực thương mại, dịch vụ

Năm 2020, khu vực dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm giảm 1,22% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, sau đó đã có sự phục hồi với tốc độ tăng 6 tháng cuối năm đạt 6,2% đưa lĩnh vực thương mại trong nước cả năm tăng 2,6%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của một số ngành dịch vụ thị trường như bán buôn và bán lẻ tăng 5,53% so với năm trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,87%, đóng góp ,46%; ngành vận tải, kho bãi giảm 1,88% làm giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 14,68% làm giảm 0,62 điểm phần trăm.

Xuất khẩu hàng hóa đạt ở mức cao kỷ lục với kim ngạch đạt 19,1 tỷ USD, cán cân thương mại duy trì xuất siêu 5 năm liền. Đặc biệt là xuất khẩu hàng hóa nông sản tăng mạnh trong bối cảnh đại dịch Covid-19; kim ngạch xuất khẩu gạo lần đầu tiên đạt 3 tỷ USD (tăng 9,3% so với năm 2019); gỗ và sản phẩm gỗ đạt 12. 323,3 tỷ USD, tăng 15,7%. Tuy nhiên, xuất khẩu thủy sản lại có xu hướng chững lại, chỉ đạt 8,4 tỷ USD, giảm 1,8% so với năm 2019.

Năm 2021, khu vực thương mại, dịch vụ tăng 1,22%, đóng góp 22,23%. Tính chung, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 4.789 nghìn tỷ đồng, giảm 3,8% so với năm 2020, nếu loại trừ yếu tố giá 6,2% (năm 2020 giảm 3%); vận tải hành khách đạt trên 2.387 lượt, giảm 33% so với năm 2020 và luân chuyển 94,7 tỷ lượt khách.km, giảm 42%; vận tải hàng hóa đạt 1.620 triệu tấn, giảm 8,7% so với năm 2020 và luân chuyển 333, 4 tỷ tấn/km, giảm 1,8%...

Bên cạnh đó, năm 2021, kim ngạch nhập khẩu đạt 332,25 tỷ USD tăng 26,5% so với năm 2020, có 47 mặt hàng đạt giá trị nhập khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 94,1% tổng kim ngạch nhập khẩu. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 4 tỷ USD.

Năm 2022, khu vực thương mại, dịch vụ khôi phục và phát triển mạnh với tốc độ đạt 9,99%, cao nhất trong giai đoạn 2011-2022. Một số ngành dịch vụ thị trường tăng cao, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế, như: ngành bán buôn, bán lẻ tăng 10,15% so với năm 2021, đóng góp 0,97 điểm phần trăm; ngành vận tải kho bãi tăng 11,93%, đóng góp 0,69 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng cao nhất trong khu vực dịch vụ với mức tăng 40,61%, đóng góp 0,79 điểm phần trăm...

Năm 2023, các hoạt động thương mại, du lịch duy trì đà tăng trưởng khá tốt, đóng góp tích cực vào tăng trường khu vực dịch vụ với mức tăng 6,82% so với năm trước. Trong khu vực này, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, như: tổng bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành tăng 8,82% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,86 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 9,18% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,55 điểm phần trăm...

Đáng chú ý, năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 355,5 tỷ USD (giảm 4,4% so với năm 2022), mức giảm này được thu hẹp khá nhiều so với 12% trong 6 tháng đầu năm 2023. Cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 28 tỷ USD (tăng hơn mức xuất siêu năm trước 15,1 tỷ USD).

Vốn đầu tư

Mặc dù tình hình quốc tế có nhiều phức tạp, ảnh hưởng đến tính hình đầu tư của Việt Nam, song mức vốn đầu tư toàn xã hội cũng như các thành phần chủ yếu của vốn đầu tư vẫn có sự tăng lên hợp lý. Năm 2020, theo Tổng cục Thống kê, vốn đầu tư của toàn xã hội theo giá năm 2020 đạt 2.064,5 nghìn tỷ đồng, tăng 5,7% so với năm 2019 và bằng 34,4% GDP. Trong đó, vốn FDI đăng ký là 28,5 tỷ USD, thực hiện 20 tỷ USD. Các nhà đầu tư nước ngoài của 112 quốc gia đã đầu tư vào 19 ngành, lĩnh vực.

Năm 2021, vốn đầu tư của toàn xã hội theo giá hiện hành năm 2021 tăng 3,2% so với năm 2020. Tuy đây là mức tăng thấp trong nhiều năm qua, nhưng là kết quả khả quan trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trong nước và trên thế giới; thu hút FDI phục hồi, vốn đăng ký mới và vốn đăng ký tăng thêm tăng trở lại cho thấy, các nhà đầu tư tiếp tục tin tưởng vào môi trường đầu tư của Việt Nam. Trong đó, vốn FDI đạt 2.891,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3,2% so với năm 2020.

Năm 2022, vốn đầu tư của toàn xã hội theo giá hiện hành đạt 3.219,8 nghìn tỷ đồng, tăng 11,2% so với năm trước; trong đó, khu vực nhà nước đạt 824,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,6% tổng vốn đầu tư và tăng 14,6% so với năm trước; khu vực ngoài nhà nước đạt 1.873,2 nghìn tỷ đồng chiếm 58,2% và tăng 8,9%; khu vực FDI đạt 521,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,2%, tăng 13,9%.

Năm 2023, ước tính vốn đầu tư của toàn xã hội theo giá hiện hành đạt 3.423,5 nghìn tỷ đồng, tăng 6,2% so với năm trước, bao gồm: vốn khu vực nhà nước 953,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 27,8% và tăng 14,6%; khu vực ngoài nhà nước đạt 1.919,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 56,1% và tăng 2,7%; khu vực FDI đạt 550,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,1%, tăng 5,4%.

Về cơ cấu kinh tế

Bảng: Cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 2020-2023

Đơn vị: %

Khu vực kinh tế chủ yếu

2020

2021

2022

2023

Công nghiệp và xây dựng

33,72

37,86

38,26

37,12

Nông, lâm, thủy sản

14,85

12,36

11,88

11,96

Thương mại dịch vụ

41,63

40,95

41,33

42,54

Thuyế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm

9,80

8,83

8,53

8,38

100

100

100

100

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Số liệu ở Bảng cho thấy:

Năm 2020, khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất với 41,63%, giảm so với năm 2019 là 0,01% (năm 2019 là 0,64%); khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng cao thứ hai với 33,72%, giảm 0,77% so với năm 2019 (năm 2019 là 34,49%); khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 14,85%, tăng 0,89% so với năm 2019 (năm 2019 là 13,96%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,8%, giảm 0,11% so với năm 2019 (năm 2019 là 9,91%).

Năm 2021, tuy khu vực dịch vụ có giảm 0,61% so với năm 2020 nhưng vẫn là khu vực chiếm tỷ trọng cao nhất với 40,95%; khu vực công nghiệp và xây dựng vẫn giữ vị trí thứ hai với tỷ trọng chiếm 37, 86%, tăng 4,14% so với năm 2020; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 12,36%, giảm so với năm 2020 là 2,49%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,83%, giảm 0,97% so với năm 2020.

Năm 2022, khu vực dịch vụ vẫn tiếp tục chiếm tỷ trọng cao nhất với 41,33%, tăng 0,38% so với năm 2021; khu vực công nghiệp và xây dựng vẫn xếp vị trí thứ hai với tỷ trọng chiếm 38,26%, tăng 0,4% so với năm 2021; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 11,88%, giảm so với năm 2021 là 0,48%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,53%, giảm 0,3% so với năm 2021.

Năm 2023, khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất với 42,54%; sau đó là khu vực công nghiệp và xây dựng với tỷ trọng 37,12%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 11,51%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,61%. Trong khi đó, cơ cấu tương ứng cùng kỳ năm 2022 là 41,33%, 38,49%, 11,88% và 8,53%.

Nhìn chung, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển biến tích cực; đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế đạt được nhiều kết quả khả quan, hoàn thành cơ bản mục tiêu đề ra; chất lượng tăng trưởng được nâng lên, kinh tế chuyển dịch theo đúng hướng, năng suất lao động được cải thiện, huy động vốn đầu tư phát triển tăng, công tác quản lý nợ công, nợ xấu có nhiều tiến bộ; quy mô, tiềm lực cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên, tạo điều kiện thuận lợi cho cho những đổi mới và đột phá trong tăng trưởng ở những năm tiếp theo.

DỰ BÁO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2024

Năm 2024, tình hình kinh tế, chính trị thế giới vẫn còn nhiều biến động lớn, phức tạp khó lường và đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Nhiều nền kinh tế lớn, trong đó có các đối tác thương mại, đầu tư quan trọng của Việt Nam tăng trưởng chậm lại, thậm trí rơi vào tình trạng suy thoái; xung đột quân sự Nga - Ukraina, mới đây là Israel - Hamas chưa có hồi kết. Việt Nam tiếp tục cam kết thực hiện mạnh mẽ, có hiệu quả chiến lược phát triển bền vững trong thế kỷ 21 thông qua việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn, đặc biệt là: Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Đây là căn cứ chiến lược để Việt Nam thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Bên cạnh đó, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có cơ chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững…”.

Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam vẫn có thể tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và tiếp tục thúc đẩy các biện pháp tài khóa, tiền tệ giúp cho việc phục hồi tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc rất lớn vào tình hình xuất khẩu, khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu, cùng với việc tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do và xử lý tốt các rủi ro thương mại - công nghệ giữa các nước siêu cường và xu hướng mất giá của các đồng tiền trong khu vực so với đô la Mỹ.

Nhiều tổ chức quốc tế dự báo, năm 2024, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tương đương mục tiêu mà Quốc hội đưa ra (khoảng 6%-6,5%). Trong đó, Standard Chartered dự báo cao nhất ở mức 6,7%. Ngân hàng HSBC dự báo ở mức 6,3%. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo kinh tế Việt Nam đứng thứ 20 thế giới với mức tăng 5,8%, VinaCapital dự báo ở mức 6,5% nhờ sự phục hội của xuất khẩu và các ngành sản xuất. Nhiều chuyên gia kinh tế và tổ chức khác dự báo tăng trưởng năm 2024 của Việt Nam ở mức xung quanh 6% (Minh Đức, 2024).

Các mức dự báo khác nhau trên cho thấy, nền kinh tế Việt Nam năm 2024 vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố không ổn định và còn nhiều khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, với mức tăng trưởng 6%-6,5% mà Quốc hội đã đề ra không phải là không thể thực hiện được. Chúng tôi cho rằng, với sự nỗ lực của tất cả các cấp, các ngành, hệ thống doanh nghiệp Việt Nam, trên cơ sở phát huy tối đa nội lực và mở rộng hợp tác quốc tế, mức GDP năm 2024 sẽ đạt được ở mức 6%-6,2%, bởi những lý do chủ yếu sau:

Thứ nhất, sự quyết tâm của Quốc hội trong việc đưa ra Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2024 với mục tiêu tiếp tục ưu tiên tăng trưởng gắn với củng cố, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Đẩy mạnh, tạo chuyển biến tích cực hơn trong thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và năng lực nội sinh của nền kinh tế. Hàng loạt chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm bớt khó khăn trong nhiều lĩnh vực, như: đất đai, bất động sản, xây dựng, du lịch, y tế… được ban hành, cùng với chính sách tài khóa về giãn hoãn, giảm một số loại thuế, phí và nghị quyết về thức đẩy đầu tư công… Bên cạnh đó, điều hành chính sách tiền tệ hợp lý; giảm lãi suất điều hành để giảm lãi suất cho vay, góp phần tăng khả năng tiếp cận vốn cho hệ thống doanh nghiệp, cùng với các gói hỗ trợ tín dụng lãi suất thấp hơn cho vay lĩnh vực lâm nghiệp và thủy sản…

Thứ hai, đổi mới cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng, phát huy lợi thế của việc tăng trưởng trong khu vực dịch vụ và khu vực công nghiệp, xây dựng trong những năm qua là một trong những nhân tố quan trọng, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế cho năm 2024 và những năm tiếp theo.

Thứ ba, lạm phát được kiềm chế ở mức có thể chấp nhận (năm 2023 là 4,16%); chỉ số giá tiêu dùng tăng hợp lý, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống doanh trong phát triển sản xuất kinh doanh (năm 2023 là 3,25%).

Thứ tư, chính sách đầu tư nói chung, đầu tư công nói riêng và việc giải ngân đầu tư công tuy gặp nhiều thách thức nhưng đã có chuyển biến tích cực trong năm 2023, đặc biệt là thời điểm 6 tháng cuối năm. Đây là nguồn nội lực quan trong để phát triển các khu vực kinh tế, góp phần tăng trưởng GDP trong năm 2024 và các năm sau.

Thứ năm, chính sách thu hút vốn FDI có sự bổ sung, chỉnh sửa hợp lý, đã thu hút được nguồn vốn này ở mức khá, với chất lượng ngày càng tăng đã góp phần quan trọng vào việc cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh. Với triển vọng tăng trưởng kinh tế trung và dài hạn là khả quan cùng với sự tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu với nhiều FTA được ký kết và có hiệu lực, Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn đối với dòng vốn FDI trong quá trình định hình lại đầu tư và chuỗi giá trị toàn cầu.

Với những kết quả đạt được trong chỉ đạo điều hành nền kinh tế giai đoạn 2020-2023 cho thấy, tiềm lực kinh tế - xã hội của Việt Nam vẫn còn khá lớn, chúng tôi cho rằng, kinh tế Việt Nam năm 2024 vẫn là điểm sáng của thế giới và khu vực, với mức tăng trưởng có thể đạt ở mức từ 6%-6,2%; thị trường xuất khẩu được duy trì và mở rộng thêm thị trường mới, xuất khẩu đạt 7,3%, thặng dư thương mại đạt mức 5,8-6,0 tỷ USD; GDP bình quân đầu người đạt khoảng hơn 4.000 USD; lạm phát ở mức 4,0%-4,20%; chỉ số CPI bình quân khoảng 3,5%-4,0%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt mức 5,6%.

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT

Để đạt được điều những kết quả dự kiến nói trên, chúng tôi đề xuất, cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, Chính phủ cần rà soát, đánh giá lại những chính sách vĩ mô về phát triển kinh tế - xã hội; kịp thời bổ sung, chỉnh sửa những hạn chế, bất cập, tạo điều kiện thuận lợi để các ngành, các cấp, các địa phương có sự phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 và đến năm 2030; tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ hợp lý, chủ động, linh hoạt, hiệu quả; kịp thời xử lý những bất cập nhằm khơi thông nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế;

Hai là, thực hiện các giải pháp hữu hiệu về thu hút nguồn vốn đầu tư; đẩy nhanh đầu tư công gắn với trách nhiệm của người đứng đầu các ngành, các cấp, các đia phương trong việc giải ngân và lựa chọn nhà đầu tư để đảm bảo nâng cao tính minh bạch và hiệu quả trong đầu tư.

Ba là, tăng cường xuất khẩu hàng hóa và mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường mới; nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và uy tín quốc gia, doanh nghiệp trong hoạt động giao thương quốc tế.

Bốn là, đẩy nhanh chuyển đổi số trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế; đảm bảo thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế số đến 2030.

Năm là, tập trung phát triển mở rộng một số lĩnh vực, ngành nghề đóng vai trò động lực tăng trưởng của nền kinh tế, như: lĩnh vực công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, kinh tế tuần hoàn và năng lượng tái tạo…/.

Tài liệu tham khảo

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.

2. Minh Đức (2023), Năm 2024, kinh tế Việt Nam sẽ phụ hồi tốt hơn, có thể tăng trưởng 6,5%, truy cập từ https://thitruongtaichinhtiente.vn/trien-vong-kinh-te-viet-nam-nam-2024-trong-mat-cac-to-chuc-quoc-te-55528.html.

3. Tổng cục Thống kê (2020-2023), Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội các năm 2021, 2022, 2023.

GS, TS. Ngô Thế Chi

TS. Ngô Văn Lượng

Học viện Tài chính

(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 3, tháng 2/2024)