Tại Hội nghị báo cáo và tham vấn Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 diễn ra ngày 26/11/2020, tại thành phố Cần Thơ, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương đã nhấn mạnh rằng, quy hoạch vùng ĐBSCL cần có những chính sách gợi mở hơn và linh hoạt để vùng có thể phát triển.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương nhấn mạnh, quy hoạch vùng ĐBSCL cần có những chính sách gợi mở hơn và linh hoạt để vùng có thể phát triển

Cơ hội nhiều

ĐBSCL là vùng ven biển thuộc hạ lưu sông Mê Công, là một trong những đồng bằng trù phú, bao gồm 13 tỉnh, thành phố, với dân số toàn vùng khoảng 17,3 triệu người (chiếm khoảng 20% dân số cả nước) và diện tích là 40,5 ngàn km2 (chiếm 12% diện tích cả nước).

Đây là vùng có điều kiện tự nhiên gắn với hệ thống sông, ngòi - kênh, rạch, đất, nước, môi trường, hệ sinh thái, cảnh quan và các yếu tố kinh tế - xã hội như phong tục, tập quán, sinh kế, truyền thống canh tác, mùa vụ, tạo thành một mối tổng hòa và liên kết rất chặt chẽ với nhau. Với tiềm năng, lợi thế, cùng với những quyết sách phù hợp của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và sự vào cuộc tích cực của các địa phương, sự hỗ trợ của các đối tác phát triển trong thời gian qua, vùng ĐBSCL đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội.

Từ trong nội vùng ĐBSCL đã hình thành nhiều khu vực sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp và du lịch tập trung, với quy mô ngày một lớn dần; đã trở thành trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của Việt Nam không những góp phần làm thay đổi, cải thiện đời sống của Nhân dân, mà còn bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Bên cạnh đó, một loạt các cơ sở hạ tầng của Vùng từng bước hoàn thiện ngày một đồng bộ và nâng cao khả năng kết nối; các đô thị dần được mở rộng làm thay đổi chất lượng cuộc sống của người dân.

Song, thách thức cũng không ít

Tuy là một trong số các đồng bằng trù phú, nhưng có thể nói chưa bao giờ vùng ĐBSCL lại đứng trước nhiều thách thức như hiện nay như tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và nước biển dâng cũng như những áp lực về phát triển kinh tế - xã hội.

Gần đây, phát triển kinh tế và biến đổi khí hậu đã gây sức ép ngày càng lớn lên hệ thống hạ tầng, các đô thị và không gian sống của người dân trong vùng ĐBSCL, làm gia tăng nguy cơ thảm họa thiên nhiên trong hiện tại và thậm chí ngày càng gia tăng trong tương lai…

Nhận thấy rõ những thách thức trên, Chính phủ đã ban hành kịp thời Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm định hướng, chỉ đạo giải quyết vấn đề của vùng ĐBSCL.

Trong đó, giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo phương pháp tích hợp, đa ngành mà Luật Quy hoạch quy định.

Trên cơ sở nhiệm vụ lập quy hoạch vùng ĐBSCL đã được Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nghiên cứu, phân tích, đánh giá, dự báo về các yếu tố, điều kiện, nguồn lực, bối cảnh phát triển, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của vùng Đồng bằng sông Cửu Long; xây dựng quan điểm, mục tiêu và các định hướng ưu tiên phát triển vùng ĐBSCL.

Cần sự đồng thuận cao của 13 tỉnh ĐBSCL

Trình bày báo cáo về kết quả tham vấn kỹ thuật đối với các định hướng phát triển Vùng; một số nội dung về Chương trình phát triển chính sách (DPO) và các dự án liên kết vùng của ĐBSCL, Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho biết, qua quá trình tham vấn ý kiến bộ, ngành, địa phương và các chuyên gia, đa số ý kiến thống nhất với quan điểm phát triển vùng ĐBSCL trên cơ sở phát huy lợi thế của vùng về nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao, kết hợp với dịch vụ, du lịch sinh thái, công nghiệp chế biến nhằm nâng cao giá trị và sức cạnh tranh; phát huy tiềm năng và lợi thế của các ngành kinh tế biển; phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, chống chịu thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên đất, tài nguyên nước theo phương châm “sống chung với nước ngọt, nước lợ và nước mặn”.

Tuy nhiên, Thứ trưởng cũng nhấn mạnh rằng, vẫn còn một số nội dung còn ý kiến khác nhau, cần xin ý kiến chỉ đạo, đồng thuận của lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương trước khi hoàn thiện liên quan đến việc xác định vai trò, vị thế của vùng ĐBSCL trong tổng thể phát triển quốc gia, quốc tế và đặc biệt là mối quan hệ với các nước trong ASEAN, vùng Đông Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó là các vấn đề liên quan đến chủ trương giảm đất trồng lúa; định hướng phát vùng ĐBSCL thời kỳ tới chú trọng phát triển lĩnh vực rau, hoa, màu, trái cây và chăn nuôi, xem đây là những lĩnh vực có là tiềm năng lớn do đa dạng về sản phẩm, công nghệ, nuôi trồng, chế biến và ít phụ thuộc vào tài nguyên hơn, đặc biệt là tài nguyên đất và nước; các trung tâm đầu mối; định hướng phát triển đô thị; kết cấu hạ tầng giao thông.

Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho biết, một trong những điểm mới trong dự thảo Quy hoạch vùng ĐBSCL là phương án phân tiểu vùng.

“Nếu như trước đây việc phân tiểu vùng chỉ dựa trên 2 vùng chính là vùng ngọt và vùng mặn trong các quy hoạch thì việc phân tiểu vùng theo dự thảo quy hoạch mới đã được điểu chỉnh theo hướng coi nước mặn, nước lợ là nguồn tài nguyên bên cạnh nước ngọt phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 120/NQ-CP, biến thách thức thành cơ hội, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và xu hướng xâm nhập mặn ngày càng gia tăng”, Thứ trưởng giải thích.

Tuy nhiên, Thứ trưởng cũng cho biết, hiện một số địa phương còn chưa hoàn toàn thống nhất với định hướng chuyển đổi sinh kế nông nghiệp ở một số khu vực đang trồng lúa sang các mô hình sinh kế khác phù hợp hơn với điều kiện hạn mặn gia tăng do thói quen, tập quán về trồng lúa của người dân đã tồn tại ổn định trong thời gian dài.

“Liên quan đến vấn đề này, nhiều hệ thống nhân tạo, công trình thủy lợi lớn hiện hữu có thể phải từng bước chuyển đổi công năng hoặc dỡ bỏ để phù hợp với định hướng phân tiểu vùng mới”, Thứ trưởng nói thêm.

Về các dự án liên kết vùng, Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho biết, thực hiện Nghị quyết số 973/2020/UBTVQH14 ngày 08/7/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn NSNN giai đoạn 2021-2025, trong đó, vốn ngân sách trung ương sẽ dành một phần để hỗ trợ chương trình, dự án kết nối, có tác động liên vùng, có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững trong đó ưu tiên vùng ĐBSCL, vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các vùng khó khăn khác để góp phần thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển, thu nhập và mức sống của dân cư giữa các vùng miền trong cả nước.

Trên cơ sở phối hợp với các địa phương vùng ĐBSCL thời gian vừa qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổng hợp danh mục các dự án do địa phương đề xuất gồm 13 dự án liên kết vùng.

“Các địa phương đã lựa chọn hầu hết các dự án có tính chất kết nối liên tỉnh, liên vùng, trong đó hầu hết là các dự án giao thông kết nối quốc lộ, cao tốc cảng biển, sân bay, khu công nghiệp, các dự án thủy lợi có tác động quy mô lớn…”, Thứ trưởng cho hay.

Về Chương trình DPO, thực hiện Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 05/9/2019 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 130/NQ-CP ngày 5/9/2019 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu trong đó giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu đề xuất bổ sung 2 tỷ USD tăng thêm cho giai đoạn 2021-2025.

“Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các bộ, cơ quan trung ương xây dựng Khoản hỗ trợ ngân sách có mục tiêu phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, quy mô 1,05 tỷ USD (Khoản hỗ trợ DPO). Theo thiết kế, Khoản hỗ trợ này gồm việc thực hiện Khung hành động chính sách và hỗ trợ các dự án liên kết vùng của ĐBSCL”, Thứ trưởng Phương cho biết.

Ngày 18/11/2020, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1832/QĐ-TTg ban hành Khung hành động đổi mới cơ chế, chính sách đối với Vùng ĐBSCL. Đây là cơ sở quan trọng để hoàn thiện các tài liệu liên quan trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt và tiếp nhận Khoản hỗ trợ DPO.

Toàn cảnh Hội thảo

Đối với 13 dự án dự kiến sử dụng nguồn vốn DPO, Thứ trưởng cho biết, các địa phương có biển từ tỉnh Bến Tre đến tỉnh Kiên Giang đều lựa chọn đầu tư tuyến đường ven biển, đây là tuyến giao thông quan trọng mở rộng không gian phát triển, tạo quỹ đất cho sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả tài nguyên biển và vùng ven biển, phát triển kinh tế biển theo chiến lược biển Việt Nam; thu hút đầu tư phát triển các khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp, khu đô thị, du lịch, nuôi trồng thủy sản; tăng cường củng cố an ninh. Bên cạnh đó, tuyến đường bộ ven biển có thể kết hợp với hệ thống đê biển và hệ thống cống ven biển để sắp xếp lại dân cư, giảm thiểu thiệt hại từ tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu, hạn hán, xâm nhập mặn. Các địa phương không có biển đã lựa chọn mỗi địa phương 01 dự án giao thông, thủy lợi liên kết vùng, các dự án hồ chứa cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất.

“Tổng mức đầu tư các dự án liên kết vùng là 26.731 tỷ đồng, đề xuất bố trí trong giai đoạn 2021-2025 là 19.916 tỷ đồng; trong đó dự kiến ngân sách trung ương hỗ trợ là 16.250 tỷ đồng cân đối trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025; ngân sách trung ương chỉ hỗ trợ phần xây lắp trong tổng mức đầu tư, các chi phí khác như giải phóng mặt bằng, dự phòng, tư vấn,…do địa phương chủ động cân đối”, Thứ trưởng cung cấp thêm thông tin.

Tổng mức đầu tư các dự án DPO là 40.875 tỷ đồng, đề xuất ngân sách trung ương bố trí từ nguồn vốn DPO là 31.330,4 tỷ đồng phần vốn xây lắp, các chi phí khác như giải phóng mặt bằng, dự phòng, tư vấn,…do địa phương cân đối. Trong khi dự kiến khoản vay có quy mô 1,05 tỷ USD tương đương khoảng 24.600 tỷ đồng.

Trong bối cảnh nhu cầu đầu tư là rất lớn, trong khi nguồn lực có hạn, Thứ trưởng Trần Quốc Phương đề nghị các địa phương lựa chọn thật sự các tuyến ưu tiên để đầu tư, trong trường hợp cần thiết đề nghị mở rộng khoản vay để có thêm nguồn lực hỗ trợ các dự án đặc biệt cần thiết của các địa phương.

Nhấn mạnh về tính kết nối, Thứ trưởng nhấn mạnh, cần có sự thống nhất của các địa phương trên toàn Vùng về hướng tuyến, đảm bảo tính kết nối giữa các địa phương nhằm phát huy tối đa hiệu quả của dự án. Do danh mục các dự án liên vùng cần thông qua ý kiến của Hội đồng vùng, vì vậy các địa phương cần có cơ chế phối hợp để thống nhất trước khi trình Hội đồng Vùng thông qua.

Cần coi các thách thức này là động lực phát triển

Trên góc độ là đơn vị tư vấn, Liên doanh Royal Haskoning DHV và GIZ nhấn mạnh rằng, nhiều quốc gia thành công thường coi trọng phát triển vốn xã hội - con người do điều này đảm bảo mang lại lợi ích kinh tế và tăng trưởng lâu dài. Do đó, phát triển "thuận thiên" không nên dừng lại ở việc tận dụng một cách hiệu quả nhất các điều kiện tự nhiên để tăng trưởng kinh tế.

Cần coi các thách thức này là động lực để chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng gia tăng hiệu quả và giá trị đối với các hoạt động phát triển, đặc biệt là các hoạt động phát triển ít phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Trong đó chú trọng phát triển, khai thác có hiệu quả các nguồn lực khác của vùng như tài nguyên con người, thể chế, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nông nghiệp công nghệ cao, đô thị hóa và phát triển công nghiệp.

Góp ý cho Dự thảo Quy hoạch vùng ÐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, nhiều địa phương trong vùng ÐBSCL đề xuất các cơ chế chính sách ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, giáo dục và đào tạo, y tế, ứng phó với biến đổi khí hậu, an ninh quốc phòng.

Theo ông Lê Văn Sử, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, Chính phủ có thể xem xét cho các tỉnh được áp dụng cơ chế ngân sách Trung ương cấp phát toàn bộ số vốn ODA đầu tư cho các dự án đầu tư xây dựng các công trình phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu theo quy định của Nghị định số 97/2018/NÐ-CP, vì đây là các dự án không trực tiếp sinh lời khi đầu tư.

Còn ông Nguyễn Trung Hoàng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh cho rằng, định hướng quy hoạch vùng ÐBSCL cần quan tâm đến phát triển kinh tế biển và ven biển, xây dựng và phát triển một vùng kinh tế biển phát triển năng động, gắn với khai thác luồng cho tàu biển có trọng tải lớn vào sông Hậu.

Quy hoạch vùng ÐBSCL lần này tạo ra một khởi đầu, cơ hội, định hướng phát triển mới cho các địa phương vùng ÐBSCL thông qua việc liên kết, sắp xếp, tổ chức lại không gian phát triển của vùng, vì thế, ông Nguyễn Văn Liệt, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long, ở quan điểm phát triển về hạ tầng thủy lợi, cần phải được xem xét thấu đáo để có phương hướng phát triển phù hợp. Phát triển hệ thống thủy lợi lâu nay là phải lớn, đa mục tiêu nhưng hiện nay cần xem lại phải phù hợp với phân vùng sản xuất sản phẩm nông nghiệp, phải cơ giới hóa được, phù hợp với kỹ thuật canh tác của các loại cây trồng, vật nuôi. Bên cạnh đó, phát triển hệ thống giao thông là rất quan trọng, đặc biệt là các nút giao thông giới hạn trên đường cao tốc sẽ cung cấp các vị trí thương mại chiến lược, hình thành các khu bán sỉ, trung tâm đầu mối. Vị trí, khoảng cách từ các nút giao này đến các cảng thủy nội địa, trung tâm đầu mối cần được chú trọng để đảm bảo hiệu quả phân phối, luân chuyển hàng hóa.

“Chốt” lại, Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho rằng, Quy hoạch vùng ĐBSCL cần có những chính sách gợi mở hơn và linh hoạt hơn để việc triển khai các hoạt động, nhiệm vụ trong quy hoạch đạt hiệu quả.

Do đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư yêu cầu đơn vị tư vấn tiếp thu các ý kiến đề xuất, chỉnh sửa hoàn thiện thêm trong dự thảo Quy hoạch vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

“Các địa phương cần bám sát tiến độ, yêu cầu xây dựng Quy hoạch vùng ĐBSCL để đóng góp chung vào quá trình hoàn chỉnh dự thảo quy hoạch. Để khi cấp có thẩm quyền phê duyệt phải đảm bảo tính phù hợp và đồng thuận cao, đảm bảo chất lượng, hiệu quả quy hoạch, phục vụ cho sự phát triển chung của vùng ĐBSCL trong thời gian tới”, Thứ trưởng nhấn mạnh./.