Việt Nam cần nỗ lực hơn để cải thiện chất lượng tăng trưởng
Ngày 9/7 tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp với Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) tổ chức hội thảo "Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm và triển vọng cả năm 2024: Động lực mới cho tăng trưởng có chất lượng".
Sự kiện nằm trong khuôn khổ Chương trình Cải cách kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh do Chính phủ Đức tài trợ.
TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM cho biết, từ đầu năm 2024, Việt Nam đã nhấn mạnh ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trên nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn. Ảnh: CIEM |
Những kết quả kinh tế - xã hội trong 6 tháng đầu năm là rất quan trọng
Phát biểu khai mạc hội thảo, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM cho biết, từ đầu năm 2024, Việt Nam đã nhấn mạnh ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trên nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn.
Bà Minh cũng nhận định, kết quả kinh tế - xã hộikhá ấn tượng trong 6 tháng đầu năm: Tăng trưởng kinh tế đạt tới 6,42%, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng xuất khẩu đạt 14,5%, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng ở cả số dự án và vốn đăng ký cấp mới, tổng vốn đăng ký, và vốn thực hiện.
“Quan trọng hơn, Việt Nam đang được coi là điểm sáng của cải cách và hội nhập kinh tế. Các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển vùng, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng năng suất lao động song hành với chuyển đổi số, chuyển đổi xanh đang trở thành những ưu tiên chính sách quan trọng”, TS. Trần Thị Hồng Minh nói.
Tính chung 6 tháng đầu năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 6,42% so cùng kỳ, trong đó quý I đạt mức 5,87%, quý II đạt mức 6,93%. Theo CIEM, kết quả này cho thấy, tăng trưởng GDP thực tế của Việt Nam đã vượt so với mức tiềm năng trong các quý I và II của năm 2024.
Năng suất lao động cũng đạt được một số kết quả tích cực. Tính theo giá hiện hành, GDP bình quân lao động có việc làm đã tăng khoảng 10,2% so cùng kỳ; tỷ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng là 4,3%, giảm 0,1 điểm phần trăm.
Lạm phát có xu hướng tăng trong các tháng đầu năm, dù vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân đã tăng 4,08%, lạm phát cơ bản tăng 2,75%. Diễn biến lạm phát trong 6 tháng đầu năm có nguyên nhân từ cả các yếu tố tăng tổng cầu và tăng chi phí sản xuất kinh doanh.
Tỷ giá VND/USD đã tăng tương đối nhanh trong 6 tháng đầu năm 2024. Tại thời điểm ngày 28/6/2024, tỷ giá trung tâm ở mức 24.260, tăng 1,07% so thời điểm cuối tháng 3/2024 và tăng 1,65% so cuối năm 2023.
Dù vậy, tỷ giá VND/USD nhìn chung ổn định hơn so với chỉ số USD Index. Trung bình 6 tháng đầu năm 2024, mức độ biến động của tỷ giá VND/USD của ngân hàng thương mại và trên thị trường tự do tương ứng bằng 59,2% và 73,1% so với chỉ số USD Index.
Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội (theo giá hiện hành) ước đạt hơn 1.45 nghìn tỷ đồng, tương đương 27,7% GDP, tăng 6,8% (nếu loại bỏ yếu tố tăng giá, mức tăng đạt 2,6%).
Tăng trưởng xuất nhập khẩu cũng là một điểm nhấn trong bức tranh kinh tế của Việt Nam với tổng giá trị xuất nhập khẩu ước đạt 368,5 tỷ USD, tăng 15,7%, cán cân thương mại hàng hóa đạt thặng dư khoảng 11,63 tỷ USD.
"Những kết quả kinh tế - xã hội trong 6 tháng đầu năm là rất quan trọng, song chỉ là bước đầu", bà Minh khẳng định, việc nhìn lại tình hình kinh tế 6 tháng đầu năm 2024 cũng là dịp để chúng ta nhìn lại những động lực, khó khăn đối với cải cách thể chế kinh tế hướng tới tăng trưởng kinh tế có chất lượng.
Toàn cảnh Hội thảo. Ảnh: CIEM |
GDP năm 2024 có thể tăng gần 7%
Trình bày báo cáo của nhóm nghiên cứu CIEM sau đó, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp nêu ra hai kịch bản cập nhật dự báo kinh tế vĩ mô trong năm 2024. Ông Dương cho biết, phần cập nhật dự báo triển vọng kinh tế Việt Nam cả năm 2024, dựa trên các kịch bản khác nhau gắn với bối cảnh kinh tế thế giới, chính sách kinh tế trong nước. Việc dự báo dựa trên 2 kịch bản chính.
Kịch bản 1 được xây dựng dựa trên giả thiết các yếu tố kinh tế thế giới tiếp tục duy trì phù hợp với đánh giá của các tổ chức quốc tế, và Việt Nam duy trì nỗ lực chính sách tương tự như đề ra trong nửa đầu năm 2024. Trong kịch bản này, Việt Nam nỗ lực để đạt tỷ lệ giải ngân đầu tư công ở mức 95% (tương đương với năm 2023). Tốc độ tăng dư nợ tín dụng chỉ tăng ở mức tương đối khiêm tốn. Đáng lưu ý, kịch bản này không có thay đổi đáng kể về cải thiện các quy định về môi trường kinh doanh, cải cách thể chế nhằm mở rộng không gian kinh tế và năng suất lao động.
Kịch bản 2 giả thiết bối cảnh kinh tế thế giới có một số chuyển biến tích cực hơn (tăng trưởng phục hồi nhanh; nhà đầu tư gia tăng đầu tư vào các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam; chuỗi cung ứng phục hồi; đầu tư cho chuyển đổi số và chuyển đổi xanh có chuyển biến tích cực). Kịch bản này cũng giả thiết Việt Nam thực hiện hiệu quả các giải pháp cải cách và điều hành kinh tế ở Việt Nam, qua đó giúp đạt kết quả tối đa về giải ngân/hấp thụ đầu tư công và tín dụng (kể cả chất lượng tín dụng), tăng NSLĐ, cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Chi tiết hai Kịch bản được tổng hợp tại Bảng 2.
Bảng 2: Chi tiết một số kịch bản để cập nhật dự báo tăng trưởng 2024
Đơn vị: % (tăng so với năm trước)
Kịch bản 1 | Kịch bản 2 | |
GDP thế giới | 2,6a | 3,2b |
Mức giá của Hoa Kỳ | 2,9b | 2,6c |
Mức giá hàng nông sản xuất khẩu | -6,0d | -2,0c |
Giá dầu thô thế giới | 1,7e | 1,2c |
Tỷ giá VNĐ/USD (bán ra, NHTM) | 3,5c | 3,0c |
Tổng phương tiện thanh toán | 7,0c | 8,0c |
Dư nợ tín dụng | 14,0c | 15,0c |
Chỉ số giá nhập khẩu | -2,2c | -4c |
Dân số | 0,84c | 0,84c |
Việc làm | 1,35b | 1,5b |
Chuyển giao của Chính phủ (ròng) trên cán cân thanh toán | -5b | 5b |
Chuyển giao của tư nhân (ròng) trên cán cân thanh toán | 5c | 5c |
Đầu tư công (nghìn tỷ đồng) | 635,7c | 669,2c |
Giải ngân FDI | 9c | 11c |
Ghi chú: a: NHTG (tháng 6/2024); b: IMF (tháng 4/2024); c: Giả định của nhóm tác giả; d: Đại diện bởi giá lương thực, theo NHTG (tháng 4/2024); e: Đại diện bởi giá dầu Brent, theo NHTG (tháng 6/2024).
Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả.
Trong Kịch bản 1, tăng trưởng GDP dự báo đạt 6,55% trong năm 2024. Xuất khẩu cả năm 2024 tăng 9,54% so với năm 2023. Chỉ số CPI bình quân cả năm 2024 tăng 4,31% so với năm 2023. Cán cân thương mại giữ được thặng dư ở mức 5,7 tỷ USD.
Trong Kịch bản 2, tăng trưởng GDP dự báo ở mức 6,95% trong năm 2024. Xuất khẩu cả năm 2024 tăng 11,64% so với năm 2023. Chỉ số CPI bình quân cả năm 2024 tăng 4,12% so với năm 2023. Cán cân thương mại đạt thặng dư ở mức 7,3 tỷ USD.
So với Kịch bản 1, thì Kịch bản 2 có kết quả tích cực hơn ở cả tăng trưởng GDP, tăng trưởng xuất khẩu và thặng dư thương mại. Lạm phát (theo CPI bình quân) trong Kịch bản 2 cũng thấp hơn so với Kịch bản 1.
Bảng 3: Kết quả dự báo một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô năm 2024
Đơn vị: %
Chỉ tiêu | Kịch bản 1 | Kịch bản 2 |
Tăng trưởng GDP | 6,55 | 6,95 |
Lạm phát (CPI bình quân) | 4,31 | 4,12 |
Tăng trưởng xuất khẩu | 9,54 | 11,64 |
Cán cân thương mại (tỷ USD) | 5,7 | 7,3 |
"Như vậy, khi tập trung vào nới lỏng tài khóa và tiền tệ ở mức độ phù hợp đồng thời có các cải cách đủ kịp thời và căn bản đối với chất lượng tăng trưởng thì hiệu quả đối với tăng trưởng kinh tế sẽ tích cực hơn, trong khi kiểm soát hiệu quả áp lực lạm phát", ông Dương cho biết.
Nhiều thuận lợi đan xen những khó khăn
Báo cáo của CIEM cho biết, trong nửa cuối năm 2024, Việt Nam có thể gặp một số thuận lợi cho phát triển kinh tế.
Thứ nhất, kinh tế thế giới có thể phục hồi tích cực hơn. Đánh giá cập nhật của các tổ chức quốc tế (OECD, IMF...) đều cho thấy triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2024 có thể cải thiện so với các dự báo trước đó.
Thứ hai, cộng đồng nhà đầu tư nước ngoài vẫn tin tưởng vào triển vọng kinh tế Việt Nam. Theo đó, ngay cả khi một số nhà đầu tư nước ngoài có điều chỉnh quy mô đầu tư ở Việt Nam thì tư duy phân tích và đánh giá chính sách cũng nên nhìn nhận nhu cầu đa dạng hóa địa điểm đầu tư của các nhà đầu tư này.
Thứ ba, các công nghệ mới (công nghệ số, AI,...) tiếp tục có những chuyển biến nhanh chưa từng có tiền lệ, có thể giúp chuyển đổi đáng kể mô hình, hiệu quả kinh tế nếu Việt Nam biết nắm bắt cơ hội.
Thứ tư, tư duy và khung chính sách cho các mô hình kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ,...) có thể được hoàn thiện hơn, qua đó giúp doanh nghiệp yên tâm với kế hoạch chuyển đổi, khai thác các cơ hội mới.
Đưa ra những thuận lợi cho Việt Nam, đại diện nhóm nghiên cứu cũng cho rằng, Việt Nam cũng phải lưu tâm, xử lý một số vấn đề, khó khăn trong các tháng tới đây.
Trình bày báo cáo của nhóm nghiên cứu CIEM sau đó, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp nêu ra hai kịch bản cập nhật dự báo kinh tế vĩ mô trong năm 2024. Ảnh: CIEM |
Một là, áp lực lạm phát còn lớn. Đáng lưu ý, tác động từ tăng lương cơ sở và tăng lương tối thiểu vùng có thể gây ra lạm phát “chi phí đẩy” nếu không có giải pháp kịp thời, đồng bộ. Bên cạnh đó, rủi ro gia tăng chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc – kèm theo đó là khả năng lạm phát gia tăng ở Mỹ và FED có thể giữ lãi suất điều hành ở mức cao – cần phải được xem xét cẩn trọng.
Hai là, khả năng kết nối giữa doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm được cải thiện, qua đó ảnh hưởng đến khả năng đóng góp và hưởng lợi từ xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước.
Ba là, nhận thức và năng lực chuyển đổi của doanh nghiệp để thích ứng với các xu hướng mới (chuyển đổi số, chuyển đổi xanh) còn tương đối hạn chế.
Bốn là, quá trình cải cách các quy định, điều kiện kinh doanh còn chưa tương xứng với yêu cầu và kỳ vọng, qua đó có thể ảnh hưởng đến khả năng tận dụng cơ hội kinh tế của cộng đồng doanh nghiệp.
Việt Nam cần nỗ lực hơn để cải thiện chất lượng tăng trưởng
Việt Nam đang hướng tới những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quan trọng trong giai đoạn đến năm 2025 và 2030. Trong khi đó, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, trong đó có rủi ro về bẫy thu nhập trung bình, tạo động lực mới cho đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh, hay duy trì và củng cố không gian chính sách cho phát triển.
Trong bối cảnh đó, nhóm nghiên cứu của CIEM cho rằng, việc chuyển sang ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - trên nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn - kể từ đầu năm 2024 đã góp phần mang lại những kết quả kinh tế - xã hội tương đối ấn tượng (cả về tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, thu hút FDI, lạm phát...). Quan trọng hơn, cộng đồng doanh nghiệp và người dân vẫn tin tưởng và đồng thuận với các định hướng, giải pháp cải cách và điều hành phát triển kinh tế-vĩ mô ở Việt Nam.
Tuy nhiên, ông Dương cũng lưu ý, tăng trưởng nhanh chỉ là một điều kiện cần. Việt Nam cần nỗ lực hơn để cải thiện chất lượng tăng trưởng. Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, cùng với việc làm tốt công tác an sinh xã hội chính là những nền tảng quan trọng để Việt Nam vững tâm thúc đẩy các cải cách thể chế kinh tế sâu rộng hơn nhằm cải thiện chất lượng tăng trưởng.
Một mặt, Việt Nam phải sớm cụ thể hóa các giải pháp chính sách cho đổi mới sáng tạo gắn với cải thiện năng suất lao động (NSLĐ) và tăng cường năng lực tiếp cận, ứng dụng các công nghệ mới (trong đó có AI, công nghệ số...). Tăng lương cơ sở ở khu vực công từ 01/7/2024, nếu thực hiện với các giải pháp bổ trợ hiệu quả, có thể trở thành động lực để cải thiện NSLĐ ở khu vực công và rộng hơn là quản trị công, từ đó tạo sức lan tỏa để tăng NSLĐ ở các khu vực khác của nền kinh tế.
Mặt khác, chính sách phải thực sự đặt cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân, ở vị trí trung tâm. Chỉ khi ấy, cộng đồng doanh nghiệp mới “muốn phát triển, dám phát triển và có thể phát triển”. Cần lưu ý, kỳ vọng nhiều ở thể chế, chính sách kinh tế không hàm nghĩa các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách cũng phải “làm thay” doanh nghiệp. Tư duy kiến tạo đòi hỏi phải biến thể chế trở thành nguồn lực cho nền kinh tế, là chìa khóa cho sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp và đất nước.
Thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế chính là một ưu tiên quan trọng trong định hình về tăng trưởng có chất lượng ở Việt Nam. Xu hướng dịch chuyển đầu tư đang mang lại cơ hội cho Việt Nam tiếp cận nguồn vốn đầu tư nước ngoài có chất lượng. Song đó chỉ là một điều kiện cần.
Thu hút và sử dụng hiệu quả các dòng vốn đầu tư nước ngoài có chất lượng cũng đòi hỏi đất nước, thể chế, doanh nghiệp và con người Việt Nam phải nỗ lực đạt “chất lượng” cao hơn. Một mặt, Việt Nam cần cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực đi kèm với khả năng kết nối với cộng đồng doanh nghiệp, nhà cung ứng trong và ngoài nước.
Chính ở đây, Việt Nam phải mạnh dạn thực thi, kể cả thông qua thử nghiệm, các chính sách phù hợp với các xu hướng kinh tế quốc tế như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Mặt khác, đa dạng hóa thị trường thông qua các FTA đang trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết, bởi xu hướng này cũng phù hợp với lợi ích và ưu tiên của các nhà đầu tư trong bối cảnh kinh tế thế giới đang và sẽ có nhiều biến động phức tạp, khó lường.
Trong bối cảnh ấy, nhóm nghiên cứu cho rằng, việc sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các chính sách kinh tế vĩ mô (đặc biệt là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa) vẫn có vai trò quan trọng. Dù vậy, khi có tư duy hướng tới tăng trưởng có chất lượng, việc thực hiện các mục tiêu chính sách trung gian có tính chất định lượng sẽ đòi hỏi cách nhìn nhận khác. Việt Nam chưa nên cân nhắc các giải pháp mở rộng tài khóa hơn nữa để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bởi nền kinh tế hiện đã bước vào giai đoạn mở rộng trong chu kỳ tăng trưởng và việc tập trung quá mức vào giải pháp tài khóa có thể làm giảm dư địa ứng phó với các cú sốc trong tương lai.
"Cần lưu ý, yêu cầu điều hành ấy cũng sẽ buộc các cơ quan, địa phương phải thực sự quyết liệt hơn trong các giải pháp cải thiện chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, để thực sự khai thác “ý nghĩa” nguồn lực của thể chế kinh tế", ông Dương nói và nhấn mạnh việc ưu tiên chính sách nhằm duy trì đà phục hồi tăng trưởng gắn với cải thiện chất lượng tăng trưởng, trên cơ sở củng cố nền tảng kinh tế vi mô, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, gắn với thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và các FTA nói riêng./.
Bình luận