Cần có luật riêng về xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng
Nhiều rào cản xử lý tài sản đảm bảo
Nhằm nâng cao nhận thức về quyền xử lý tài sản tài sản bảo đảm hợp pháp của tổ chức tín dụng với vai trò là bên nhận bảo đảm, cũng như phản ánh các bất cập, khó khăn, vướng mắc của tổ chức tín dụng trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm để đưa ra kiến nghị các cơ quan nhà nước liên quan xem xét hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chỉ đạo chức Hội thảo “Quyền xử lý tài sản bảo đảm của tổ chức tín dụng” vào sáng 6/12 tại Hà Nội.
Theo chuyên gia kinh tế TS. Vũ Đình Ánh, bản chất kinh tế của quyền xử lý tài sản bảo đảm tại tổ chức tín dụng là quyền đối với tài sản bảo đảm nhằm bù đắp thiệt hại do nợ xấu gây ra. Nhưng, khi các tổ chức tín dụng xử lý tài sản bảo đảm, thì quan hệ với người đi vay không những thiếu đi sự hợp tác cần thiết, mà có khi còn chuyển sang đối đầu, thậm chí mâu thuẫn xung đột gay gắt.
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Kim Anh phát biểu tại hội thảo
Cũng tại hội thảo, nhiều chuyên gian cho rằng, hiện nay hệ thống pháp luật còn thiếu các quy định về xử lý tài sản bảo đảm, hoặc quy định không phù hợp, không đồng bộ, mâu thuẫn; thực tiễn áp dụng và thực thi các quy định pháp luật chưa đúng của cơ quan liên quan thi hành pháp luật gây khó khăn và ảnh hưởng lớn đến quá trình xử lý tài sản bảo đảm.
Cụ thể hơn, ông Thiệu Ánh Dương, Giám đốc Công ty TNHH MTV Quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) của Ngân hàng Techcombank chỉ ra hai nguyên nhân chính khiến việc xử lý nợ chậm trễ là do thủ tục kiện tụng và thi hành án phức tạp kéo dài và việc xử lý nợ thông qua biện pháp thu giữ tài sản để bán đấu giá công khai gặp nhiều vướng mắc, cản trở.
Đồng quan điểm, ông Phạm Mạnh Thắng, Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Vietcombank cho biết thêm, theo thống kê của Vietcombank, trong năm 2016, thời gian trung bình cơ quan thi hành án dân sự các cấp xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ cho Vietcombank đối với tài sản đảm bảo là nhà ở chiếm khoảng 35% vụ việc, tài sản đảm bảo là phương tiện giao thông vận tải, máy móc thiết bị chiếm 33% vụ việc sẽ mất thời gian trên 24 tháng. Nhưng có những vụ việc phải trải quan gần 30 lần giảm giá với thời gian xử lý lên tới 5 năm. Thậm chí, khi bản án có hiệu lực thi hành, nhưng việc thi hành án sau nhiều năm vẫn chưa thực hiện xong và nợ chưa được thu hồi.
Chính do tính phức tạp và kéo dài của thủ tục khởi kiện và thi hành án nên nhiều khách hàng vì muốn trì hoãn việc trả nợ đã “vận dụng thủ tục” này để yêu cầu ngân hàng giải quyết tranh chấp qua tòa án dù Nghị định 163/2006/NĐ-CP đã cho phép tổ chức tín dụng có thể chủ động xử lý tài sản đảm bảo hoặc khởi kiện.
Tuy vậy, việc xử lý tài sản đảm bảo đối với ngân hàng cũng không dễ dàng hơn.
Mặc dù, pháp luật cũng đã quy định, trong quá trình tiến hành thu giữ tài sản đảm bảo, nếu bên giữ tài sản đảm bảo có dấu hiệu chống đối, cản trở, gây mất an ninh, trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác thì người xử lý tài sản đảm bảo có quyền yêu cầu UBND xã, phường, thị trấn và cơ quan công an nơi tiến hành thu giữ tài sản đảm bảo, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền thu giữ tài sản đảm bảo.
Song, theo ngân hàng, trên thực tế dù đã gửi trước hồ sơ, kế hoạch thu giữ tài sản đến chính quyền địa phương theo đúng quy định thì vẫn tồn tại tình trạng nhiều địa phương không đồng ý hỗ trợ, thậm chí ngăn cản hoạt động xử lý tài sản đảm bảo của tổ chức tín dụng hoặc yêu cầu tổ chức tín dụng không được thực hiện thu giữ, ra khỏi địa điểm có tài sản và nhiều trường hợp yêu cầu trả lại tài sản đã thu giữ…
Một số đại diện ngân hàng cũng cho rằng, họ gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình nhận tài sản bảo đảm là nhà ở. Nhiều quy định của pháp luật hiện hành thiếu các hướng dẫn cụ thể về nội dung xử lý tài sản bảo đảm dẫn đến việc khi các tổ chức tín dụng nhận thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở, thì việc xử lý tài sản bảo đảm có thể dẫn đến thời gian giải quyết kéo dài, gây khó khăn, lúng túng cho các tổ chức tín dụng trong quá trình thực hiện. Bên cạnh đó, việc kéo dài thời gian thi hành án không chỉ tốn kém chi phí, mà còn kéo dài thời gian thu nợ, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.
Cần phải hoàn thiện khung pháp lý
Cũng tại hội thảo cũng ghi nhận nhiều kiến nghị cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về Quyền xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng cũng như trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ quyền xử lý tài sản bảo đảm của cơ quan tư pháp các cấp. Các diễn giả cho rằng, quan điểm xây dựng và thực thi pháp luật hiện nay cần phải được thay đổi. Đó là phải ưu tiên trước hết bảo vệ quyền lợi của chủ nợ thay vì con nợ, tức bảo vệ quyền sở hữu trọn vẹn là đồng tiền cho vay, thay vì bảo vệ quyền sở hữu hạn chế là đồng tiền đi vay hay tài sản đã đưa vào bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ.
Điều này cần phải được cụ thể hoá trong các quy định liên quan đến giao dịch bảo đảm, xử lý tài sản bảo đảm. Đồng thời, các tham luận tại Hội thảo cũng kiến nghị, Bộ Tư pháp khẩn trương phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công an, Bộ Tài chính và Toà án Nhân dân Tối cao trình Chính phủ ban hành Nghị định về xử lý tài sản bảo đảm.
Theo TS. Vũ Đình Ánh, quyền xử lý tài sản bảo đảm sẽ được thực thi một cách nhanh chóng, hiệu quả và hiệu lực khi và chỉ khi nhận thức về quyền, lợi ích và nghĩa vụ của tất cả các bên liên quan trong quan hệ tín dụng ngân hàng được xác lập một cách đúng đắn dựa trên những cơ sở pháp lý khả thi, phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam, đồng thời tiệm cận với thông lệ và chuẩn mực quốc tế…”.
Còn chuyên gia kinh tế TS. Võ Trí Thành bổ sung thêm, trước hiện tượng đặc biệt thì phải sử dụng giải pháp cũng đặc biệt. Theo đó, trước hết là phải quyết liệt, một trong những cách làm quyết liệt là đề ra một bộ luật riêng để xử lý. Bởi nợ xấu đã trở thành vấn đề đại sự, là một trong những yếu tố sống còn của việc phát triển kinh tế. Trong khi chờ luật mới thì phải thông qua các vấn đề về quyền tài sản, bao gồm cả quyền xử lý và giao dịch, quy trình và hiệu lực thực thi.
Hơn nữa, cũng trong quá trình này, Viện Kiểm sát nên thống nhất lại như kiểu “án lệ” để ra quy định xử lý nhanh, tách biệt. Nhiều điều liên quan đến đạo lý thì phải có phần tách biệt giữa hoạt động trong nền kinh tế thị trường với quyền tài sản và trách nhiệm với Nhà nước.
Tiếp cận vấn đề dưới góc độ pháp luật, luật sư Nguyễn Thị Phương, Phó Chủ nhiệm CLB Pháp chế Ngân hàng Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, “quyền xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng là một loại quyền dân sự. Do đó, các tổ chức tín dụng được thực hiện quyền xử lý tài sản bảo đảm theo ý chí của mình với điều kiện tiên quyết là không trái các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và không được lạm dụng quyền gây thiệt hại cho người khác, không vượt quá giới hạn việc thực hiện quyền đó…
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Kim Anh cho rằng, việc xử lý hiệu quả tài sản bảo đảm đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật được xây dựng một cách đồng bộ, minh bạch, phù hợp, tôn trọng quyền chủ nợ hợp pháp của bên cho vay, tạo lập được khuôn khổ pháp lý cho các bên liên quan, đặc biệt là chủ nợ thực thi được quyền hợp pháp của mình theo thỏa thuận, thiết lập được cơ chế, cách thức cho phép các bên lựa chọn được cách xử lý nhanh chóng, thuận tiện, tối đa hóa được giá trị thu nợ từ tài sản bảo đảm. Đồng thời, hệ thống pháp luật này phải được các cơ quan, tổ chức liên quan, các bên tham gia giao dịch thực hiện nghiêm minh.
Hiện tại, Bộ Luật Dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2017) chưa có quy định cụ thể về việc thu giữ tài sản bảo đảm. Do đó, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Kim Anh đề nghị Bộ Tư pháp cần phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan để nghiên cứu, bổ sung hướng dẫn chi tiết về quyền của bên nhận bảo đảm đối với việc xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp bên bảo đảm chống đối, không hợp tác./.
Bình luận