Cần xem xét tác động suy giảm kinh tế trong trung và dài hạn khi áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt 10% đối với nước giải khát có đường
Trong bối cảnh Dự thảo Luật thuế TTĐB (sửa đổi) do Bộ Tài chính chủ trì xây dựng đề xuất bổ sung NGK có đường vào đối tượng chịu thuế TTĐB đang có nhiều ý kiến trái chiều từ giới chuyên gia và các doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, các phát hiện từ báo cáo này là những luận cứ và cơ sở khoa học rất quan trọng để các bên liên quan cần tham vấn trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, phê duyệt dự thảo Luật sửa đổi.
Bức tranh ảm đạm của ngành đồ uống và NGK
Chia sẻ kết quả nghiên cứu tại Hội thảo công bố Báo cáo do CIEM tổ chức ngày 17/10, TS. Nguyễn Minh Thảo, Trưởng Ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh (CIEM) cho biết, xét về bức tranh tổng thể hoạt động, tăng trưởng số lượng doanh nghiệp sản xuất đồ uống đã giảm mạnh từ giai đoạn dịch Covid-19 đến nay. Cũng trong giai đoạn này, ngành đồ uống đã liên tiếp chịu tác động bởi nhiều yếu tố từ dịch bệnh, bất ổn và xung đột địa chính trị thế giới, biến động trong nước đến các yếu tố về thể chế, quy định chính sách. Điều này dẫn tới sự sụt giảm về nhiều chỉ tiêu hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, và từ đó tác động trực tiếp tới cơ hội việc làm và thu nhập của người lao động.
Hội thảo công bố Báo cáo nghiên cứu “Đánh giá tác động kinh tế của dự thảo thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với nước giải khát có đường" do CIEM thực hiện |
Theo báo cáo của CIEM, một số yếu tố đáng chú ý gần đây tác động trực tiếp tới ngành đồ uống, gồm: (i) Bất ổn kinh tế toàn cầu khiến chi phí tăng cao, tiêu dùng sụt giảm; (ii) Yếu tố thiên tai bất định ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống và sinh kế của người dân và tác động tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; (iii) Những thay đổi chính sách tác động tới chi phí của doanh nghiệp ngành đồ uống (như Nghị định số 100/2019/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt; thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) theo quy định tại Nghị định số 08/2022/NĐ-CP; các yêu cầu về tiêu chuẩn xanh, phát triển bền vững.
Trong bối cảnh này, dự thảo Luật thuế TTĐB (sửa đổi) được nhìn nhận là một chính sách có ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ngành đồ uống nói chung và ngành NGK nói riêng. Tại dự thảo tháng 6/2024, một trong những nội dung chính sách được bổ sung mới tại Dự thảo Luật thuế TTĐB (sửa đổi) là “Mở rộng cơ sở tính thuế”, trong đó có quy định: “Bổ sung nước giải khát có đường theo Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 12828:2019) có hàm lượng đường trên 5g/100ml vào đối tượng chịu thuế TTĐB”. Tuy nhiên, cơ quan soạn thảo chưa đánh giá toàn diện các tác động của việc áp dụng các quy định này. Nhiều ý kiến chuyên gia và một số phân tích khoa học cho thấy, việc áp thuế TTĐB đối với NGK có đường như tại Dự thảo chưa đảm bảo hiệu quả về điều tiết hành vi tiêu dùng; đồng thời chưa đảm bảo nguyên tắc công bằng của chính sách thuế, có thể đẩy ngành sản xuất đồ uống rơi vào tình trạng suy giảm ngày càng trầm trọng, ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nhiều ngành kinh tế quan trọng, tạo ra nhiều hệ lụy cho phát triển kinh tế, xã hội.
Nhiều hệ lụy trong trung hạn và dài hạn
Bà Thảo cho biết, Báo cáo của CIEM nhận diện các tác động kinh tế dựa trên cấu trúc nền kinh tế Việt Nam thông qua bảng IO cập nhật năm 2022 và các dữ liệu chính thống liên quan sẵn có. Kết quả tính toán cho thấy khi áp thuế TTĐB 10% đối với NGK có đường sẽ dẫn tới các tác động đối với ngành sản xuất NGK thể hiện trên các phương diện sau: (i) Quy mô sản xuất của các doanh nghiệp nước giải khát bị co hẹp sau khi tăng thuế; (ii) Giá trị tăng thêm (VA) và giá trị sản xuất (GO) của nhóm ngành NGK đều giảm. Trong đó, giá trị tăng thêm giảm 0,772%, tương đương giảm 5.650 tỷ đồng.
TS. Nguyễn Minh Thảo, Trưởng Ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh (CIEM) chia sẻ kết quả báo cáo nghiên cứu của Ciem |
Đáng chú ý, việc áp thuế TTĐB này không chỉ tác động tới ngành NGK mà còn ảnh hưởng tới 24 ngành khác trong quan hệ liên ngành. Hệ quả tác động tới toàn nền kinh tế theo tính toán bao gồm: (i) Tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế giảm 0,601%; tương đương 55.077 tỷ đồng. Điều này kéo theo sự sụt giảm về GDP ở mức 0,448%, tương đương giảm 42.570 tỷ đồng; (ii) Khấu hao tài sản cố định của các doanh nghiệp trong ngành giảm ở mức -0,654% (tương đương giảm 7.767 tỷ đồng); lợi nhuận giảm với mức -0,561% (tương đương giảm 8.773 tỷ đồng). Vì thế, nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế trực thu) sụt giảm 2.152 tỷ đồng; (iii) Kết quả tính toán tác động tới thu nhập của người lao động trong toàn nền kinh tế giảm 0,6%, tương đương giảm 34.534 tỷ đồng.
Với phương án áp thuế TTĐB ở mức 10%, kết quả phân tích bảng IO cho thấy, năm đầu tiên áp thuế (năm 2026) ước tính nguồn thu từ thuế gián thu tăng 0,853%. Nhưng đến chu kỳ tiếp theo (chu kỳ sau 1 năm), nguồn thu từ thuế gián thu bắt đầu suy giảm với mức -0,495%/năm, tương ứng ước tính giảm khoảng 4.978 tỷ đồng/năm. Và các chu kỳ sau, nguồn thu ngân sách tiếp tục giảm.
Cụ thể, các tác động đánh giá được định lượng hóa trên các khía cạnh như sau:
- Quy mô sản xuất thu hẹp: Tổng hệ số co giãn về lao động và vốn của nhóm ngành NGK nhỏ đi 1,031%. Điều này thể hiện rằng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp nước giải khát bị co hẹp sau khi tăng thuế.
- Giá trị tăng thêm (VA) và giá trị sản xuất (GO) của nhóm ngành NGK đều giảm. Trong đó, giá trị tăng thêm giảm 0,772%, tương đương giảm 5.650 tỷ đồng; giá trị sản xuất giảm 0,167%, tương đương giảm 5.524 tỷ đồng.
- Giá trị sản xuất theo giá cơ bản của tất cả các ngành không chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi thuế TTĐB trong quan hệ liên ngành đều giảm (trung bình giảm ở mức 0,164%). Theo đó, tổng giá trị sản xuất của những ngành không chịu ảnh hưởng trực tiếp từ việc áp thuế TTĐB sụt giảm 49.995 tỷ đồng.
- Giá trị sản xuất của toàn nền kinh tế cũng sụt giảm ở mức 0,164%, tương đương 55.519 tỷ đồng.
- Tổng giá trị tăng thêm của nền kinh tế giảm 0,601%; tương đương 55.077 tỷ đồng. Điều này kéo theo sự sụt giảm về GDP ở mức 0,448%. Tham chiếu GDP theo giá hiện hành năm 2022 là 9.500.000 tỷ đồng thì mức độ sụt giảm GDP của nền kinh tế theo phương án áp thuế này là 42.570 tỷ đồng.
- Nguồn thu ngân sách từ thuế giảm trong các chu kỳ sau. Với phương án áp thuế TTĐB 10% đối với NGK có đường, kết quả phân tích bảng IO cho thấy, năm đầu tiên áp thuế (năm 2026) ước tính nguồn thu từ thuế gián thu tăng 0,853%. Theo đó, năm đầu tiên áp thuế, nguồn thu ngân sách từ thuế gián thu tăng 8.507 tỷ đồng. Nhờ vậy, tổng thu ngân sách từ thuế (bao gồm cả thuế gián thu và trực thu) tăng 0,636% năm đầu tiên khi áp thuế TTĐB 10% đối với NGK có đường. Tuy nhiên, ở chu kỳ tiếp theo (chu kỳ sau 1 năm), nguồn thu từ thuế gián thu bắt đầu suy giảm với mức -0,495%/năm, tương ứng ước tính giảm khoảng 4.978 tỷ đồng/năm. Và các chu kỳ sau, nguồn thu ngân sách tiếp tục giảm.
Khi áp thuế TTĐB ở mức 10% đối với NGK có đường sẽ khiến doanh nghiệp ngành NGK thu hẹp quy mô sản xuất, kéo theo đó khấu hao tài sản cố định giảm ở mức -0,654%; lợi nhuận giảm với mức -0,561% ngay năm đầu tiên khi áp thuế. Vì thế, nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế trực thu) sụt giảm theo ở mức -0,636%. Với tỷ lệ giảm thuế này, ngay khi áp thuế TTĐB 10% đối với NGK có đường, nguồn thu ngân sách từ thuế TNDN sẽ sụt giảm 2.152 tỷ đồng. Ở các chu kỳ tiếp theo, nguồn thu ngân sách từ thuế trực thu tiếp tục giảm.
- Giảm thu nhập của người lao động: Việc áp thuế TTĐB 10% với NGK có đường dẫn tới giảm quy mô sản xuất của ngành NGK, giảm giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm của ngành NGK và các ngành trong quan hệ liên ngành. Những suy giảm này từ đó tác động trực tiếp tới cơ hội việc làm (lao động) và thu nhập của người lao động. Theo đó, thu nhập của người lao động trong toàn nền kinh tế giảm 0,6%, tương đương giảm 34.534 tỷ đồng.
“Như vậy, có thể thấy, xét về tác động kinh tế, việc áp thuế TTĐB 10% đối với NGK có đường dẫn tới tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Cũng như thực trạng chung của doanh nghiệp ngành đồ uống, ngành NGK là ngành dễ bị tổn thương trước các cú sốc, bao gồm cả những thay đổi về chính sách. Vì thế, quá trình soạn thảo các văn bản, chính sách tác động tới doanh nghiệp ngành NGK càng đòi hỏi phải thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng”, bà Thảo nhấn mạnh.
Cần cân nhắc kỹ các tác động liên ngành
Theo đánh giá của Hiệp hội Bia, Rượu và Nước giải khát Việt Nam (VBA), cùng với khó khăn chung của ngành công nghiệp trong nước, ngành đồ uống cũng không ngoại lệ. Do hệ quả của suy thoái kinh tế, người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu vì thu nhập giảm, hoặc lo ngại nền kinh tế có thể tệ hơn nữa trong tương lai. Đây là lý do dẫn đến sức tiêu thụ đồ uống sụt giảm, gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành. Đây là những nguyên nhân chính dẫn đến năng lực sản xuất của nhóm doanh nghiệp đồ uống (trong đó có nhóm nước giải khát) hiện nay hoạt động ở mức dưới 80% so với trước đại dịch. Nhiều doanh nghiệp phải cắt giảm sản xuất, giảm lao động; số lượng doanh nghiệp tạm dừng hoạt động tăng; do đó kéo theo nhiều tác động xã hội. Kết quả tăng trưởng doanh nghiệp cho thấy sức chống chịu của doanh nghiệp suy giảm và cơ hội kinh doanh hạn chế.
Mặt khác, các chính sách tác động tới ngành NGK nói riêng và ngành đồ uống nói chung sẽ tạo tác động lan tỏa trong quan hệ liên ngành tới nhóm ngành dịch vụ ăn uống và lưu trú. “Nếu tác động của chính sách diễn ra theo hướng tiêu cực tới ngành đồ uống, thì sẽ làm trầm trọng thêm mức độ khó khăn, ảnh hưởng tới sự phát triển của ngành dịch vụ ăn uống, lưu trú; và do đó là sự phát triển của toàn ngành dịch vụ và tăng trưởng của nền kinh tế.
Thêm vào đó, cơn bão số 3 đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp, làm gián đoạn đáng kể khả năng sản xuất và cung ứng hàng hóa. Chi phí khôi phục cơ sở hạ tầng sẽ tạo thêm áp lực tài chính cho doanh nghiệp. Sức khỏe của doanh nghiệp bị bào mòn; sức chống chịu suy giảm; hiệu quả sản xuất, kinh doanh chưa thể phục hồi đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới tâm lý đầu tư, kinh doanh, do đó làm suy yếu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế. Một số dự thảo luật khác như Luật thuế GTGT (sửa đổi), Luật Thuế TNDN (sửa đổi) nếu được thông qua theo lộ trình như Bộ Tài chính đề xuất, thì các doanh nghiệp NGK sẽ có thể cùng lúc chịu thêm các sức ép lớn về tài chính”, đại diện VBA nhận định.
Ông Nguyễn Văn Việt, Chủ tịch VBA kiến nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc chưa bổ sung NGK vào đối tượng chịu thuế TTĐB tại lần sửa đổi này |
Theo VBA, Dự thảo Luật thuế TTĐB (sửa đổi) đề xuất mở rộng cơ sở tính thuế với quy định bổ sung nước giải khát có đường theo Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 12828:2019) có hàm lượng đường trên 5g/100ml vào đối tượng chịu thuế TTĐB ở mức thuế suất là 10% là một chính sách có ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ngành đồ uống nói chung và ngành NGK nói riêng. Tuy nhiên, Báo cáo đánh giá tác động của Ban soạn thảo còn thiên về định tính nhiều hơn, chưa đề cập đến những tác động đầy đủ và toàn diện như vị trí và những đóng góp đáng kể của ngành đồ uống cho xã hội và nền kinh tế nói chung. Đặc biệt là đánh giá định lượng tác động tăng thuế đối với đối tượng chịu tác động trực tiếp, tác động gián tiếp, đến người tiêu dùng, môi trường đầu tư, lao động, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, bên cạnh mục tiêu bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Tại Hội thảo, ông Nguyễn Văn Việt, Chủ tịch VBA cho biết, trong bối cảnh các doanh nghiệp còn khó khăn hiện nay, để dự thảo luật được ban hành hài hòa lợi ích giữa nhà nước, người tiêu dùng và doanh nghiệp, cũng như góp phần đảm bảo phát triển kinh tế-xã hội và mục tiêu sức khỏe của người tiêu dùng Việt Nam, các doanh nghiệp ngành nước giải khát dựa trên các cơ sở khoa học, thực tiễn, kinh nghiệm quốc tế, VBA kiến nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc chưa bổ sung nước giải khát theo Tiêu chuẩn Việt Nam có hàm lượng đường trên 5g/100ml, vào đối tượng chịu thuế TTĐB tại lần sửa đổi này. Bên cạnh đó, cùng với việc cần có các đánh giá kỹ lưỡng từ góc độ kinh tế, nhìn nhận trên phương diện đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng thông qua chính sách điều tiết hành vi, Chủ tịch VBA cũng cho rằng, nếu sử dụng phương án áp thuế để giảm tình trạng béo phì, thì rất cần xem xét cân nhắc các số liệu thực tiễn và khách quan của các tổ chức bởi các số liệu cần phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Trong bối cảnh Việt Nam còn nhiều khó khăn, cần dựa vào báo cáo thực tiễn của Việt Nam để đánh giá kỹ lưỡng hơn, đảm bảo khi chúng ta đưa ra luật đi vào cuộc sống thực hiện được các mục tiêu và hài hòa để doanh nghiệp phát triển.
Các đại biểu cho rằng trong bối cảnh doanh nghiệp đang khó khăn hiện nay, cần tính toán rất kỹ đến mức độ tác động và sức khỏe, khả năng chịu đựng của doanh nghiệp |
Về phía doanh nghiệp, ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch Ủy ban Quan hệ doanh nghiệp và pháp chế Tập đoàn Tân Hiệp Phát cũng cho rằng, hiện nay chưa có căn cứ đánh giá tác động liên quan tới thừa cân béo phì đối với NGK có đường nhưng đã tác động tiêu cực rõ ràng tới doanh nghiệp. Theo tính toán của doanh nghiệp, việc áp thuế TTĐB nếu thực hiện theo phương án đề xuất của Bộ Tài chính sẽ tác động trực tiếp tới 800 nghìn đơn vị hộ kinh doanh trong chuỗi phân phối, đồng thời có khoảng 4.500 nhà cung cấp trong chuỗi ngành NGK sẽ bị ảnh hưởng, chưa kể tác động tới toàn bộ liên ngành các ngành kinh tế có liên quan. Bên cạnh đó, điều này cũng sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ kế hoạch, chiến lược của doanh nghiệp đã đầu tư, đang và sẽ thực hiện trong thời gian tới, bởi doanh nghiệp sản xuất có kế hoạch dài hạn như thuê đất, đầu tư nhà xưởng. Đây sẽ là những ảnh hưởng rất lớn trong bối cảnh doanh nghiệp đang khó khăn hiện nay, do đó cần tính toán rất kỹ đến mức độ tác động và sức khỏe, khả năng chịu đựng của doanh nghiệp.
Đề xuất chưa áp thuế TTĐB đối với NGK
Tại Hội thảo, TS Nguyễn Minh Thảo cho biết, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu công bố, báo cáo của CIEM đề xuất chưa áp dụng thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường trong thời điểm hiện nay. “Thời gian qua, doanh nghiệp ngành NGK liên tiếp chịu tác động bởi những cú sốc về dịch bệnh và những biến động khó lường, khiến cho sức chống chịu của doanh nghiệp ngành NGK suy giảm, năng lực cạnh tranh bị bào mòn. Do đó, giai đoạn này Chính phủ cần hướng tới các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi; sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật theo hướng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thay vì ban hành các quy định mà có thể ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động sản xuất, kinh doanh”, đại diện CIEM nhìn nhận.
Bên cạnh đó, bà Thảo cũng cho rằng, cùng với việc sửa đổi Luật thuế TTĐB, dự thảo Luật thuế GTGT (sửa đổi) đang đề xuất chuyển nhóm mặt hàng "đường; phụ phẩm trong sản xuất đường, bao gồm gỉ đường, bã mía, bã bùn" từ nhóm đang áp dụng mức thuế suất GTGT 5% sang nhóm áp dụng thuế suất GTGT 10%. Dự thảo Luật Thuế TNDN (sửa đổi) cũng đang đề xuất loại bỏ các ưu đãi thuế đối với nhóm mặt hàng chịu thuế TTĐB. Nếu các luật này được thông qua theo lộ trình như Bộ Tài chính đề xuất, thì các doanh nghiệp NGK sẽ cùng lúc chịu thêm nhiều sức ép lớn từ việc tăng chi phí nguyên liệu sản xuất do giá đường tăng; tăng giá bán do tăng chi phí, do áp thuế TTĐB. Đồng thời, doanh nghiệp ngành NGK cũng sẽ không được hưởng các ưu đãi thuế khi mặt hàng NGK có đường thuộc diện chịu thuế TTĐB.
Ngoài ra, kết quả phân tích dựa trên cấu trúc bảng IO cho thấy, nếu áp thuế TTĐB 10% đối với mặt hàng NGK có đường sẽ tác động tiêu cực tới nền kinh tế trên nhiều khía cạnh như: quy mô sản xuất, sản lượng, giá trị gia tăng, lợi nhuận, thu nhập, lao động và cả nguồn thu NSNN. “Cơ quan soạn thảo cần tổ chức tham vấn rộng rãi đối với các đối tượng chịu tác động bởi chính sách; giải trình rõ ràng, minh bạch, công khai đối với các ý kiến góp ý. Đồng thời, việc ban hành mới hay sửa đổi, bổ sung các quy định, chính sách cần thực hiện đánh giá tác động toàn diện, thực chất, dựa trên cơ sở khoa học và minh chứng thuyết phục”, bà Thảo nhấn mạnh.
Bà Trần Thị Nhị Hà, Phó trưởng Ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, rất cần có cơ sở đánh giá khoa học, bằng chứng thuyết phục, phù hợp với điều kiện thực tiễn, kinh tế Việt Nam và sức khỏe cộng đồng |
Theo đề xuất từ CIEM, để điều tiết hành vi tiêu dùng, cơ quan quản lý nhà nước có thể áp dụng đồng thời nhiều công cụ quản lý khác nhau, kết hợp các công cụ quan trọng là công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân; đồng thời sớm hoàn thiện các quy chuẩn kỹ thuật (QCVN), tiêu chuẩn kỹ thuật (TCVN) đối với mặt hàng thực phẩm và đồ uống để đảm bảo chất lượng thực phẩm, đồ uống khi tiêu thụ trên thị trường.
Đối với hiệp hội doanh nghiệp, CIEM đề xuất VBA cần chủ động cập nhật, phối hợp cung cấp thông tin, cơ sở khoa học tới cơ quan soạn thảo và các bên liên quan trong quá trình lấy ý kiến cho dự thảo Luật và các hiệp hội cũng cần hợp tác trao đổi, chia sẻ các mối quan tâm; kịp thời thể hiện quan điểm chính sách; phản ánh các vấn đề, vướng mắc, khó khăn; đề xuất các kiến nghị liên quan đến chính sách và thực thi chính sách để đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời tạo thuận lợi, an toàn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trước các ý kiến trái chiều và trên cơ sở các kết quả báo cáo từ nghiên cứu của CIEM, bà Trần Thị Nhị Hà – Phó trưởng Ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận định, việc áp thuế TTĐB với nước giải khát có đường tác động lớn tới người tiêu dùng, doanh nghiệp. Do đó, rất cần có cơ sở đánh giá khoa học, bằng chứng thuyết phục, phù hợp với điều kiện thực tiễn, kinh tế Việt Nam và sức khỏe cộng đồng. “Có nên đánh thuế TTĐB với NGK có đường không? Có nhiều phương pháp giúp điều tiết hành vi người tiêu dùng như tuyên truyền, điều tiết dinh dưỡng, dán nhãn… Vậy các phương thức này đã thực hiện như thế nào, kết quả ra sao, tác động như thế nào cũng cần được làm rõ để có cơ sở đưa ra quyết định áp dụng thuế với mặt hàng này” bà Hà nhấn mạnh./.
Bình luận