BẤT CHẤP NHIỀU THÁCH THỨC KHÓ LƯỜNG, NĂM 2022 GẶT HÁI NHIỀU THÀNH CÔNG

Năm 2022, trước những diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều yếu tố mới xuất hiện, chưa từng có tiền lệ của tình hình thế giới, khu vực, nền kinh tế thế giới chịu nhiều biến động, lạm phát ở mức cao, tăng trưởng thấp, mất ổn định, thậm chí đối mặt với nguy cơ suy thoái; biến đổi khí hậu ngày càng bất thường.

Ở trong nước, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội cũng nặng nề hơn, vì vừa phải triển khai các nhiệm vụ thường xuyên, vừa phải ứng phó với những vấn đề đột xuất, bất ngờ trong quá trình điều hành và xử lý các vấn đề tồn đọng, kéo dài... Mặc dù gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là do bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, nhưng với quyết tâm, sự nỗ lực lớn của cả hệ thống chính trị và nhân dân, cùng cộng đồng doanh nghiệp, với các biện pháp đồng bộ, kịp thời, quyết liệt, chúng ta đã đạt được kết quả tích cực. Nhờ đó, kinh tế phục hồi và đạt tốc độ tăng trưởng cao (8,02%), vượt mục tiêu đề ra (6%-6,5%) tạo đà quan trọng cho các năm tiếp theo thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Các cân đối lớn vẫn giữ được mức bảo đảm, an ninh lương thực được giữ vững, xã hội ổn định, đời sống nhân dân được đảm bảo. Kinh tế vĩ mô duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân cả năm 2022 tăng 3,15%; thu ngân sách nhà nước (NSNN) vượt dự toán, bảo đảm các khoản chi; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; đạt được mức tăng trưởng tích cực trong bối cảnh kinh tế thế giới đang trong quá trình phục hồi và lạm phát cao.

Chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ cho phục hồi và tăng trưởng kinh tế bền vững năm 2022
Năm 2022, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; đạt được mức tăng trưởng tích cực trong bối cảnh kinh tế thế giới đang trong quá trình phục hồi và lạm phát cao

Việc triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác đã góp phần quan trọng thúc đẩy phục hồi nhanh phát triển kinh tế - xã hội, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Thành công của chính sách tài khóa

Thu NSNN năm 2022 đạt cao so với dự toán

Chính sách tài khóa được điều hành linh hoạt, ứng phó hiệu quả, kịp thời với biến động phức tạp của tình hình trong nước và ngoài nước; cân đối đảm bảo nguồn lực hỗ trợ quá trình phục hồi và phát triển kinh tế, góp phần ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo an sinh xã hội.

Thu NSNN năm 2022 ước đạt 1.784,8 nghìn tỷ đồng, vượt 26,4% so với dự toán và tăng 8,1% so với năm trước; tỷ lệ động viên vào NSNN xấp xỉ 18% GDP (vượt mục tiêu 15,2% GDP).

Năm 2022 tiếp tục thực hiện miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, tiền thuê đất, kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp và người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh sau dịch bệnh theo Nghị quyết số 43/2022/QH15, ngày 11/01/2022 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP, ngày 30/01/2022 của Chính phủ với tổng số tiền miễn, giảm, gia hạn khoảng 233,5 nghìn tỷ đồng.

Chi NSNN quản lý chặt chẽ, tiết kiệm

Chi NSNN đảm bảo nguồn lực hỗ trợ phục hồi kinh tế, kiểm soát chặt chẽ bội chi NSNN và nợ công trong phạm vi Quốc hội cho phép. Chi NSNN ước đạt xấp xỉ 1.562,3 nghìn tỷ đồng, bằng 87,5% dự toán và tăng 8,1% so với năm trước, đảm bảo các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước, thanh toán các khoản nợ đến hạn và khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh. Ước cuối năm 2022, bội chi NSNN (bao gồm cả Chương trình phục hồi kinh tế - xã hội) khoảng 4% GDP; dư nợ công khoảng 43%-44% GDP; dư nợ Chính phủ khoảng 40%-41% GDP; dư nợ vay nước ngoài của quốc gia khoảng 40%-41% GDP. Triển khai gói phục hồi kinh tế với quy mô 347 nghìn tỷ đồng, trong đó tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội, chuyển đổi số.

Đã triển khai hiệu quả các chính sách, như: Hỗ trợ lãi suất từ NSNN đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh; tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; tín dụng đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn để mua máy tính, thiết bị phục vụ học tập trực tuyến; hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động; tín dụng ưu đãi đối với cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học dân lập, tư thục.

Cân đối ngân sách được đảm bảo

Cân đối ngân sách Trung ương và địa phương được đảm bảo. Ước cuối năm 2022, bội chi NSNN khoảng 4% GDP. Ngân quỹ nhà nước được sử dụng hiệu quả thông qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ. Lũy kế đến ngày 15/12/2022, thực hiện phát hành được 203,2 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ; kỳ hạn phát hành bình quân 12,67 năm; lãi suất bình quân 3,41%/năm.

Giá cả và thị trường được điều hành linh hoạt

Giá cả và thị trường được điều hành phù hợp với tình hình thực tế, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, góp phần kiểm soát lạm phát, giảm chi phí cho doanh nghiệp và người dân. Giá cả, lạm phát, nhất là giá xăng dầu chịu sức ép lớn từ biến động của thị trường thế giới, nhưng vẫn được kiểm soát theo mục tiêu đề ra. Năm 2022, CPI bình quân tăng khoảng 3,15% so với năm 2021 (lạm phát cơ bản tăng 2,59%) góp phần kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra năm 2022 (không quá 4%).

Các thị trường tài chính tiếp tục được củng cố

Các thị trường tài chính tiếp tục được xử ký kịp thời các khó khăn, vướng mắc để thị trường chứng khoán phát triển lành mạnh, công khai, minh bạch. Lũy kế từ đầu năm đến tháng 12/2022, giá trị giao dịch bình quân trên thị trường cổ phiếu đạt 20.410 tỷ đồng/phiên; giá trị giao dịch bình quân trên thị trường trái phiếu đạt 7.737 tỷ đồng/phiên; khối lượng giao dịch bình quân trên thị trường chứng khoán phái sinh của sản phẩm hợp đồng tương lai trên chỉ số VN30 đạt 270.484 hợp đồng/phiên, tăng 43%. Quy mô vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt khoảng 64,2% GDP

Chính sách tiền tệ phối hợp hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác

Chính sách tiền tệ được điều hành chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, thích ứng kịp thời với diễn biến của thị trường trong nước và quốc tế.

Chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ cho phục hồi và tăng trưởng kinh tế bền vững năm 2022

Năm 2022, chính sách tiền tệ được điều hành chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác

Trong năm 2022, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng các mức lãi suất, cụ thể: (i) 2 lần tăng các mức lãi suất điều hành với tổng mức tăng 2%/năm và lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND kỳ hạn dưới 6 tháng tại tổ chức tín dụng với tổng mức tăng 0,8%-2%/năm; (ii) Tăng 1%/năm lãi suất cho vay tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên. Lãi suất tiền gửi VND bình quân tăng 1,19%/năm so với cuối năm 2021, lãi suất cho vay VND bình quân tăng 1,21%/năm. Việc điều chỉnh tăng lãi suất là phù hợp với xu hướng chung trên toàn thế giới để ưu tiên kiểm soát lạm phát, giữ ổn định tỷ giá, tạo dư địa thích ứng mới với các biến động trên thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hệ thống.

Tỷ giá được điều hành chủ động, linh hoạt để thích ứng trước những khó khăn, thách thức, diễn biến khó lường và áp lực lớn của thị trường quốc tế. Ngày 17/10/2022, biên độ tỷ giá giao ngay USD/VND được điều chỉnh từ mức +3% lên +5% để tạo dư địa cho tỷ giá diễn biến linh hoạt. Tỷ giá USD/VND tăng khoảng 3,56% so với cuối năm 2021, mức mất giá của VND thấp hơn so với các đồng tiền khác trên thế giới (Nhân dân tệ giảm 9,86%, Won giảm 8,64%, Yên giảm 14,97%). Tỷ giá USD/VND tương đổi ổn định so với nhiều đồng tiền khác trong khu vực. Hoạt động trên thị trường ngoại tệ về cơ bản diễn ra thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được tổ chức tín dụng đáp ứng, trong đó có nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu xăng dầu, qua đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát.

Lạm phát được kiểm soát tốt, khi lạm phát cơ bản bình quân năm 2022 tăng 2,59% so với năm 2021, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 3,15%). Điều này phản ánh biến động giá tiêu dùng chủ yếu do giá lương thực, xăng, dầu và gas tăng, không phải do yếu tố tiền tệ.

Tín dụng được điều hành phù hợp, đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế, hướng tín dụng vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Cuối năm 2022, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh chỉ tiêu tín dụng thêm khoảng 1,5%-2% cho toàn hệ thống, để tăng nguồn vốn ngân hàng cho doanh nghiệp, người dân. Đến ngày 21/12/2022, tín dụng toàn nền kinh tế đạt khoảng 11,78 triệu tỷ đồng, tăng 12,87% so với cuối năm 2021 do cầu tín dụng tăng ngay từ đầu năm, phù hợp với diễn biến phục hồi tích cực của nền kinh tế. Cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vốn cho các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên, hỗ trợ tích cực quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, phát triển nông thôn, công nghiệp hỗ trợ, hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

MỘT SỐ THÁCH THỨC TRONG NĂM 2023

Bên cạnh những kết quả, thành công của các chính sách tài khóa, tiền tệ đã được ban hành, triển khai kịp thời nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho người dân, cộng đồng doanh nghiệp khôi phục và phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát, vẫn còn những tồn tại, hạn chế và những vấn đề đặt ra trong quá trình điều hành chính sách tài khóa, tiền tệ trong năm 2023 như sau:

Áp lực lạm phát tiếp tục gây thách thức đối với công tác điều hành kinh tế vĩ mô bởi một số nguyên nhân chủ yếu sau:

(i) Mặc dù CPI bình quân năm 2022 chỉ tăng khoảng 3,15% so với năm 2021, nhưng CPI lũy kế tháng 12/2022 so với cùng kỳ năm 2021 ở mức cao (ước trên 4%), làm CPI những tháng đầu năm 2023 sẽ ở mức cao, gây áp lực lên công tác điều hành giá và nhiệm vụ kiểm soát lạm phát ngay từ đầu năm 2023.

(ii) Lạm phát thế giới vẫn ở mức cao; căng thẳng nguồn cung xăng dầu khi các nước áp giá trần đối với dầu xuất khẩu của Nga; giá hàng hóa thiết yếu, lương thực chưa có dấu hiệu hạ nhiệt…, gây sức ép đối với mặt bằng giá cả trong nước.

(iii) Giải ngân vốn đầu tư công dự kiến tăng cao, nhất là các dự án, công trình quan trọng quốc gia; các dự án, công trình thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, cũng là yếu tố làm tăng nhu cầu, giá cả các mặt hàng nguyên vật liệu... Kinh nghiệm các quốc gia hiện nay cho thấy, nếu không có giải pháp kiểm soát kịp thời, thì lạm phát sẽ trở thành rào cản ngược đối với tăng trưởng kinh tế.

Chính sách tài chính của các nước tiếp tục thắt chặt gây sức ép đối với chính sách tiền tệ quốc gia, nhất là điều hành tỷ giá, lãi suất và quản lý dự trữ ngoại hối

Việc giảm lãi suất cho vay trong thời gian tới khó có thể thực hiện, do các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới tiếp tục tăng lãi suất nhanh và mạnh. Cụ thể, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục chu kỳ thắt chặt chính sách tiền tệ và tăng lãi suất điều hành. Dự báo Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất đạt mức 5%-5,25% trong năm 2023 để kiềm chế lạm phát. Lãi suất huy động vốn tăng, nên các tổ chức tín dụng rất khó khăn trong giảm lãi suất cho vay.

Áp lực đối với chính sách tài khóa

Áp lực đối với chính sách tài khóa trong việc huy động đủ vốn, để bù đắp bội chi cho đầu tư phát triển trong bối cảnh đẩy mạnh giải ngân số vốn của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong thời hạn của Chương trình (chuyển từ năm 2022 sang năm 2023).

Thu NSNN chưa ổn định, bền vững: Thu NSNN năm 2022 tăng và vượt dự toán Quốc hội giao, tuy nhiên tăng thu chủ yếu là từ tiền sử dụng đất, thu dầu thô và hoạt động xuất nhập khẩu; dự toán NSNN 2022 được xây dựng trong bối cảnh nền kinh tế chịu tác động bởi đại dịch Covid-19, GDP quý III/2021 giảm 6,17%, do đó, dự toán thu được xây dựng trên cơ sở thận trọng và thấp hơn số thực hiện năm 2021.

Quy mô thị trường vốn (thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp) chưa phát triển tương xứng với vai trò cung cấp vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Năm 2022, thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp gặp khó khăn do niềm tin thị trường thấp, sụt giảm. Những diễn biến không thuận lợi của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, cũng như thị trường bất động sản trong năm 2022 càng khiến áp lực lên vốn tín dụng ngân hàng tăng cao trong bối cảnh nền kinh tế cần nguồn vốn để phục hồi và phát triển.

Mặc dù nền kinh tế còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với sự quyết liệt, chủ động, tích cực, sáng tạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong chỉ đạo, điều hành triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, chính sách tài khóa, tiền tệ trong năm 2023 sẽ tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong thúc đẩy nền kinh tế tiếp tục phát triển và phục hồi tích cực, bền vững./.

ThS. Nguyễn Thế Ngân

Vụ trưởng Vụ Tài chính, Tiền tệ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư[1]

(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 1+2/01/2023)


[1] Nội dung bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, không phản ánh quan điểm chính thức của Vụ Tài chính, Tiền tệ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư