Vùng đất bao gồm toàn bộ ranh giới hành chính đất liền và không gian biển của 11 tỉnh, thành phố bao gồm: Thành phố Hà Nội, Thành phố Hải Phòng, các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam và Ninh Bình.

Đến năm 2050, hình thành các trung tâm dịch vụ mang tầm khu vực và thế giới  tại Đồng bằng sông Hồng
Đại diện đơn vị tư vấn lập Quy hoạch, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Văn Vịnh trình bày tóm tắt các nội dung của Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 tại Hội nghị thẩm định Quy hoạch vùng, ngày 22/12/2023

Giai đoạn 2021-2030: Tăng trưởng GRDP vùng bình quân khoảng 9%/năm

Theo đơn vị tư vấn lập quy hoạch Vùng là Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, quan điểm phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Hồng được dựa trên cơ sở khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế vượt trội để phát triển nhanh, bền vững vùng Đồng bằng sông Hồng thực sự là vùng động lực phát triển hàng đầu, có vai trò định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của cả nước; phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia và các quy hoạch ngành quốc gia theo hướng mở; đẩy mạnh liên kết phát triển giữa vùng Đồng bằng sông Hồng với các vùng khác trong cả nước.

Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, Chính phủ số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của vùng. Phát huy tối đa lợi thế của các vùng, ưu tiên phát triển có trọng tâm đối với một số ngành mũi nhọn có khả năng tạo động lực và dẫn dắt các ngành khác phát triển. Phát triển vùng đi đầu cả nước về mục tiêu trở thành vùng phát triển hiện đại, có thu nhập cao.

Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện, hiệu quả, tận dụng tốt cơ hội mà các hiệp định thương mại tự do và hiệp định đầu tư thế hệ mới mang lại để đa dạng hoá thị trường, nâng cao khả năng thích ứng của nền kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài. Hình thành năng lực sản xuất mới gắn với hình thành các chuỗi giá trị/các cụm liên kết liên ngành và khả năng chống chịu hiệu quả trước các tác động lớn, bất thường từ thiên tai, sự cố bên ngoài. Phát triển nhanh, hài hoà các khu vực kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; phát triển kinh tế tư nhân thực sự là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế vùng.

Phát triển hài hoà giữa kinh tế với văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm an sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Phát huy nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và là mục tiêu của sự phát triển. Lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là nền tảng bảo đảm sự phát triển bền vững. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá, giá trị lịch sử, nhất là văn hóa đồng bằng Bắc Bộ. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Mục tiêu đến năm 2030, phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng nhanh, bền vững, có cơ cấu kinh tế hợp lý, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc; tập trung phát triển công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, xanh, tuần hoàn có giá trị kinh tế cao; trở thành trung tâm giáo dục, đào tạo nhân lực chất lượng cao của cả nước; đi đầu về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số; có hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, đô thị thông minh, có tính kết nối cao.

Tình trạng ô nhiễm môi trường, ùn tắc giao thông và ngập úng cơ bản được giải quyết. Quốc phòng, an ninh được giữ vững; quan hệ đối ngoại mở rộng, hội nhập quốc tế hiệu quả. Đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng cao, dẫn đầu cả nước. Xây dựng Thủ đô Hà Nội “Văn hiến - Văn minh - Hiện đại”, trở thành trung tâm, động lực thúc đẩy phát triển vùng và cả nước, phấn đấu ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực.

Mục tiêu về kinh tế được đặt ra là tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn vùng (GRDP) bình quân khoảng 9%/năm; GRDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đến năm 2030 đạt khoảng 11.000-12.000 USD/người. Cơ cấu kinh tế đến năm 2030: Nông, lâm và thuỷ sản chiếm khoảng 3,5%; công nghiệp - xây dựng chiếm khoảng 47%; dịch vụ chiếm khoảng 41%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp chiếm khoảng 8,5% GRDP toàn vùng. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khoảng 30% GRDP, kinh tế số đạt khoảng 35% GRDP. Tổng đầu tư xã hội bình quân đạt 36-40% GRDP. Tỉ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo chiếm 50% tổng số doanh nghiệp hoạt động.

Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội đạt trên 7,0%/năm. Đóng góp bình quân của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng giai đoạn 2021 - 2030 đạt 55%. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 55%.

Về xã hội đặt ra mục tiêu Chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,7. Tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 48 - 52%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị duy trì ở mức dưới 3%. Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội giảm xuống dưới 15%.

Đến năm 2050, vùng Đồng bằng sông Hồng tiếp tục đi đầu trong cả nước về phát triển khoa học, công nghệ

Tầm nhìn đến năm 2050, phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng tiếp tục đi đầu trong cả nước về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số. Các ngành công nghiệp phát triển với công nghệ tiên tiến, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển các ngành, sản phẩm công nghiệp mới, công nghệ cao và chủ động trong các khâu nghiên cứu, thiết kế, chế tạo. Hình thành các Trung tâm dịch vụ lớn mang tầm khu vực và thế giới về thương mại, du lịch, tài chính, logistics ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh.

Phát triển nền nông nghiệp hiện đại, người dân nông thôn có mức sống cao, có điều kiện sống ngang với các đô thị văn minh. Phát triển hệ thống đô thị vùng theo mô hình mạng lưới, xanh, thông minh và bền vững, có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phù hợp, đồng bộ, hiện đại, có môi trường và chất lượng sống đô thị tốt, thích ứng với biến đổi khí hậu, có vai trò, vị thế xứng đáng trong mạng lưới đô thị Châu Á - Thái Bình Dương.

Đến năm 2050, hình thành các trung tâm dịch vụ mang tầm khu vực và thế giới  tại Đồng bằng sông Hồng
Nguồn: Đơn vị tư vấn lập Quy hoạch

Để đạt được các mục tiêu trong thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn năm 2050, đơn vị tư vấn đề xuất các nhiệm vụ trọng tâm và đột phá phát triển trong thời gian tới.

Cụ thể, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng; xây dựng thể chế liên kết vùng đủ mạnh, bảo đảm hiệu quả điều phối, liên kết phát triển vùng, tập trung vào một số lĩnh vực như quy hoạch, phát triển hạ tầng, xúc tiến đầu tư, xử lý các vấn đề môi trường nội vùng và liên vùng, phát triển các cụm liên kết ngành. Thực hiện thí điểm một số mô hình, cơ chế, chính sách mới vượt trội, cạnh tranh quốc tế cao nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng.

Xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo, đi đầu trong phát triển khoa học, công nghệ. Xây dựng, tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới đổi mới sáng tạo của vùng, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo để hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo. Phát triển trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia tại Hà Nội. Hình thành các cụm liên kết đổi mới sáng tạo trên cơ sở liên kết các tổ chức khoa học và công nghệ với các khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trung tâm tài chính, quỹ đầu tư mạo hiểm, trường đại học, viện nghiên cứu.

Hình thành và phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu thương mại tự do trên cơ sở hoàn thiện chính sách, mô hình phát triển và quản lý nhằm tạo đột phá trong thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng của vùng.

Xây dựng kết cấu hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu thương mại tự do đồng bộ, hiện đại, gắn với các hành lang liên kết quốc tế, liên kết vùng, có sức hấp dẫn đầu tư, có tính cạnh tranh quốc tế. Thu hút đầu tư có chọn lọc, phù hợp với yêu cầu, tiềm năng phát triển của vùng và của các địa phương trong vùng; ưu tiên dự án đầu tư có công nghệ hiện đại, đảm bảo chất lượng, hiệu quả sử dụng tài nguyên và lao động, có giá trị gia tăng cao và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, thích ứng với Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư.

Phát triển kết cấu hạ tầng vùng theo hướng đồng bộ, hiện đại; hoàn thiện mạng lưới giao thông đồng bộ, hiện đại, kết nối nội vùng, liên vùng và quốc tế; phát triển vận tải đa phương thức, phát huy lợi thế về cảng biển, cảng hàng không, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa và các hành lang kết nối của vùng. Đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành dứt điểm một số công trình hạ tầng giao thông trọng điểm quốc gia có tính liên kết vùng, hạ tầng số, hạ tầng đô thị...

Phát triển hệ thống đô thị trong vùng theo mạng lưới, phân bố hợp lý, thông minh, hiện đại, thích ứng với biến đổi khí hậu; lấy định hướng phát triển giao thông công cộng (theo mô hình TOD) làm cơ sở quy hoạch đô thị. Đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá, phát triển các trung tâm hành chính tỉnh, thành phố để tăng cường liên kết và hình thành các chuỗi đô thị, trong đó, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh gắn với phát triển vành đai công nghiệp, đô thị, dịch vụ; chuỗi đô thị tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình gắn với phát triển kinh tế biển, liên kết chặt chẽ thông qua vành đai kinh tế ven biển. Tiếp tục thực hiện di dời các trường đại học, bệnh viện ra khỏi trung tâm Thủ đô Hà Nội. Có chính sách đủ mạnh thúc đẩy phát triển nhà ở xã hội, xây dựng các thiết chế văn hoá, nhất là tại các địa phương có công nghiệp phát triển nhanh, thu hút nhiều lao động.

Phân bổ không gian phát triển: 2 tiểu vùng, 5 hành lang phát triển và 5 khu vực động lực

Theo đơn vị từ vấn, Quy hoạch vùng đề xuất định hướng phát triển 2 tiểu vùng. Theo đó, tiểu vùng phía Bắc bao gồm 7 tỉnh và thành phố (Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc) là vùng động lực có tác động dẫn dắt sự phát triển của vùng Đồng bằng sông Hồng và cả nước.

Tiểu vùng cũng là vùng kinh tế động lực đầu tàu, trung tâm kinh tế, thương mại, tài chính, dịch vụ, du lịch tầm quốc tế; dẫn đầu cả nước về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và thể dục thể thao, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, an ninh và trật tự xã hội, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân. Phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến có giá trị gia tăng cao, công nghiệp công nghệ cao, kinh tế số, tài chính, ngân hàng, du lịch và đô thị thông minh.

Tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hồng, gồm các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hà Nam và Ninh Bình. Phát triển tiểu vùng Nam Đồng bằng sông Hồng trở thành cửa ngõ phía Nam của vùng kết nối với vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ, lấy một số lĩnh vực làm động lực phát triển như khu kinh tế ven biển, các khu công nghiệp; phát triển các ngành nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn; công nghiệp bảo quản, chế biến nông sản, công nghiệp hỗ trợ, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch; phát triển các khu kinh tế ven biển, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hoá, tâm linh gắn với bảo vệ môi trường; phát triển một số lĩnh vực dịch vụ trở thành trung tâm phía Nam của vùng (vận tải, kho bãi và nhất là dịch vụ du lịch). Bảo vệ tốt môi trường sinh thái vùng bờ và các nguồn lợi thủy, hải sản; bảo vệ và phát triển hệ sinh thái rừng phòng hộ ven biển.

Quy hoạch cũng định hướng phát triển các hành lang

Thứ nhất là Hành lang liên kết kinh tế quốc tế Bắc - Nam: Lạng Sơn - Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh - Cà Mau. Hành lang liên kết kinh tế quốc tế Lạng Sơn - Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh - Cà Mau hình thành dựa trên trục giao thông kết nối là đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc - Nam và đường sắt tốc độ cao trong tương lai; kết nối các vùng động lực, các đô thị, trung tâm kinh tế, tạo tác động lan tỏa thúc đẩy sự phát triển của khu vực phía Tây và dải ven biển.

Tại Hành lang, bố trí phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, các trung tâm khoa học và công nghệ, giáo dục, đào tạo, y tế chuyên sâu, hiện đại... gắn với các đô thị trung tâm cấp quốc gia trên hành lang. Mở rộng phát triển đô thị và hệ thống khu, cụm công nghiệp, trung tâm dịch vụ, du lịch gắn với các đô thị trung tâm tỉnh và vùng. Phát triển các trung tâm logistics hiện đại gắn với các cảng hàng không quốc tế, cảng biển lớn, cửa khẩu quốc tế.

Thứ hai là Hành lang kinh tế liên kết quốc tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh là hành lang kết nối vùng Trung du và miền núi phía Bắc với các trung tâm kinh tế, cảng biển lớn của cả nước; thúc đẩy hợp tác thương mại, đầu tư giữa các địa phương của Việt Nam và khu vực phía Tây Nam Trung Quốc.

Tại hành lang, bố trí phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản, khai thác, chế biến khoáng sản, các trung tâm du lịch, dịch vụ tại khu vực Lào Cai - Yên Bái, hình thành các tuyến du lịch kết hợp du lịch nghỉ dưỡng trên núi và du lịch biển.

Thứ ba là Hành lang kinh tế liên kết vùng Điện Biên - Sơn La - Hòa Bình - Hà Nội. Theo đó, Hành lang kinh tế Điện Biên - Sơn La - Hòa Bình - Hà Nội kết nối tiểu vùng Tây Bắc với vùng Đồng bằng sông Hồng, liên kết với hành lang kinh tế Bắc - Nam và kết nối với khu vực phía Bắc Lào, có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội tiểu vùng Tây Bắc.

Ưu tiên phát triển nông nghiệp công nghệ cao, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản; phát triển hạ tầng thương mại, dịch vụ vận tải, hình thành chuỗi liên kết cung ứng - tiêu thụ nông sản trong vùng, liên kết các đô thị với các trung tâm du lịch, kết nối, tạo điều kiện phát triển ở các khu vực khó khăn và đặc biệt khó khăn thuộc tiểu vùng Tây Bắc.

Thứ tư là Hành lang kinh tế liên kết vùng Hà Nội - Thái Nguyên - Bắc Kạn - Cao Bằng (kết nối với Trùng Khánh, Trung Quốc). Hành lang kinh tế dựa trên vùng không gian ảnh hưởng của cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên - Bắc Kạn và Quốc lộ 3. Trong phạm vi vùng Đồng bằng sông Hồng (Hà Nội) định hướng bố trí đảm bảo tính kết nối tổng thể hệ thống đô thị, công nghiệp, dịch vụ của Thành phố Hà Nội với tỉnh Thái Nguyên (thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc). Hành lang có không gian điểm đầu gắn với đầu mối giao thông quốc gia là cảng hàng không quốc tế Nội Bài, thuận lợi để hình thành các chức năng mới kết nối quốc tế.

Trên hành lang tập trung thu hút các hoạt động dịch vụ logistic, trung chuyển hàng hóa quốc tế; bố trí các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch gắn với hình thành các khu đô thị hiện đại, thông minh; xây dựng trung tâm triển lãm quốc tế, các không gian mới cho công nghiệp văn hóa.

Thứ năm là Hành lang kinh tế ven biển Quảng Ninh - Hải Phòng - Thái Bình - Nam Định - Ninh Bình (thuộc vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ). Hành lang ven biển kết nối các khu vực phát triển kinh tế năng động như các khu kinh tế ven biển, các khu đô thị, du lịch, nông nghiệp (nuôi trồng, khai thác thủy, hải sản) nhằm khai thác có hiệu quả các tiềm năng và nguồn lợi từ biển; tạo động lực, tăng cường kết nối vùng với các tỉnh Bắc Trung Bộ và cả nước, thúc đẩy sự phát triển của tiểu vùng Nam sông Hồng, thu hẹp khoảng cách phát triển của tiểu vùng với toàn vùng và cả nước.

Tập trung phát triển các khu kinh tế ven biển, các trung tâm du lịch, dịch vụ logistics, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, hình thành các cụm liên ngành trong phát triển kinh tế biển, phát triển kinh tế nông nghiệp. Phát triển các đô thị, điểm dân cư ven biển theo hướng hình thành chuỗi đô thị ven biển; bảo tồn và phát triển giá trị đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên, bảo vệ và phát huy giá trị các nguồn lợi từ biển; phát triển các hệ thống công trình phòng, chống thiên tai, củng cố, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống đê điều, hồ đập bảo đảm chủ động phòng, chống lũ.

5 khu vực phát triển động lực được Quy hoạch đưa ra.

(i) Hình thành vùng động lực Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, bao gồm Thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, tỉnh Bắc Ninh và các địa bàn cấp huyện dọc theo trục Quốc lộ 5 và Quốc lộ 18 qua các tỉnh Quảng Ninh, Hưng Yên, Hải Dương; trong đó, Thủ đô Hà Nội là cực tăng trưởng.

(ii) Xây dựng vùng trở thành trung tâm khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo của quốc gia. Tập trung hình thành, phát triển mạng lưới trung tâm đổi mới sáng tạo; đi đầu trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số, chính quyền số.

(iii) Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ hiện đại, chất lượng cao như thương mại, logistics, tài chính, ngân hàng, du lịch, viễn thông, y tế chuyên sâu, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; hình thành trung tâm dịch vụ lớn mang tầm khu vực và thế giới. Thu hút đầu tư các ngành công nghiệp chế tạo tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu, các ngành công nghiệp điện tử, tin học, trí tuệ nhân tạo, sản xuất ô tô, công nghiệp hỗ trợ. Mở rộng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch.

(iv) Xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành trung tâm kinh tế biển, là cửa ngõ của vùng gắn với cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện. Hình thành Trung tâm kinh tế biển với các ngành vận tải biển, du lịch biển đảo, kinh tế hàng hải và các ngành kinh tế biển mới, tập trung vào các ngành vận tải biển, logistics, các ngành dịch vụ biển, khoa học công nghệ biển và các ngành kinh tế biển mới (năng lượng tái tạo từ biển, công nghệ sinh học biển, dịch vụ và sản phẩm biển công nghệ cao…).

(v) Đẩy mạnh đô thị hoá gắn với phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng và nâng cao hiệu quả kinh tế đô thị, kết nối đô thị. Xây dựng Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế của khu vực phía Bắc và cả nước, có sức cạnh tranh quốc tế.

Bên cạnh đó, Quy hoạch cũng nêu rõ các khu vực bảo tồn, hạn chế khai thác phát triển và các khu vực hạn chế phát triển./.