Tại Hội nghị Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng Sông Hồng lần thứ ba ngày 09/5, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, mặc dù thời gian triển khai các Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ được hơn 1 năm và Hội đồng điều phối Vùng vừa được thành lập, nhưng được sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, giành ưu tiên nguồn lực tập trung, nhất là nguồn lực ngân sách trung ương, các bộ, địa phương trong vùng đã quán triệt nội dung, ban hành các kế hoạch hành động, phối hợp chặt chẽ, tổ chức triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp đề ra.

Đổi mới tư duy, phát huy sự năng động, sáng tạo trong triển khai Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng. (Ảnh: TTXVN)

Kinh tế - xã hội vùng từng bước phát triển ổn định theo định hướng bền vững hơn

Bộ trưởng nhận định, về cơ bản, kinh tế - xã hội vùng từng bước phát triển ổn định theo định hướng bền vững hơn. Chất lượng cơ sở hạ tầng vùng Đồng bằng sông Hồng ngày càng được cải thiện, có 04/11 địa phương nằm trong nhóm 10 tỉnh, thành phố có cơ sở hạ tầng tốt nhất cả nước (Quảng Ninh dẫn đầu cả nước, Hà Nội đứng thứ 4, Hải Phòng thứ 7, Bắc Ninh thứ 8). Thế chế và bộ máy điều phối vùng đã được hoàn thiện; Hoàn thành Quy hoạch vùng và 09/11 Quy hoạch tỉnh làm nền tảng, định hướng cho thu hút đầu tư trong thời gian tới.

Quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của các địa phương được giữ vững ổn định; Công tác đối ngoại được mở rộng cả về đối tác và nội dung hợp tác, trong đó chú trọng đối ngoại kinh tế, xúc tiến thu hút đầu tư. năm 2023, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Vùng đạt được nhiều kết quả tích cực.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) năm 2023 của Vùng đạt 6,28%, đứng thứ 3/6 vùng kinh tế (sau vùng Trung du miền núi phía Bắc, vùng Đồng bằng sông Cửu Long), gấp 1,24 lần so với bình quân chung cả nước (cả nước tăng 5,05%).

Quy mô nền kinh tế giá hiện hành đạt hơn 3,1 triệu tỷ đồng, chiếm 30,1% GDP cả nước, đứng thứ 2/6 vùng kinh tế (sau vùng Đông Nam Bộ 30,2%); GRDP bình quân đầu người đạt 131,9 triệu đồng, đứng thứ 2 cả nước (sau vùng Đông Nam Bộ 166 triệu đồng).

Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2023 ước đạt hơn 720 nghìn tỷ đồng, đứng đầu cả nước (Vùng Đông Nam Bộ ước đạt 689 nghìn tỷ đồng); Thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) năm 2023 lớn nhất nước, ước đạt 17,382 tỷ USD (đứng trên vùng Đông Nam Bộ 11,394 tỷ USD), trong đó 05/11 địa phương trong vùng thuộc nhóm 10 địa phương dẫn đầu cả nước.

Quý I/2024, GRDP bình quân của Vùng đạt 6,2%; (bình quân cả nước 5,66%), thu cân đối NSNN đạt 94 nghìn tỷ đồng, bằng 30,37% dự toán (311 nghìn tỷ đồng), xuất khẩu ước đạt 31 tỷ USD, chiếm 33,9% kim ngạch xuất khẩu cả nước (93 tỷ USD); giải ngân vốn đầu tư công của Vùng ước 4 tháng đạt hơn 25.128 tỷ đồng, đạt 14% kế hoạch (cả nước 17,5%).

Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của liên kết vùng, điều phối phát triển vùng, Bộ trưởng cho biết, các bộ, ngành và các địa phương trong Vùng đã tích cực triển khai các nhiệm vụ được giao phục vụ mục tiêu phát triển nhanh, bền vững để tạo bước đột phá, lan tỏa trong phát triển kinh tế - xã hội vùng nhằm cụ thể hóa chủ trương về hợp tác về liên kết vùng tại Nghị quyết số 30 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ tại Nghị quyết số 14.

Tháng 11 năm 2023, Chủ tịch Hội đồng vùng đã ban hành Quyết định giao 23 nhiệm vụ cụ thể cho các Thành viên Hội đồng vùng. Đến nay, đã hoàn thành được 12/23 nhiệm vụ, chiếm 52% số nhiệm vụ được giao.

"Đây là một nỗ lực rất lớn của các Thành viên Hội đồng trong một thời gian ngắn, thể hiện tính trách nhiệm phối hợp cao trong triển khai nhiệm vụ được giao", Bộ trưởng nhấn mạnh và cho biết, đối với 11 nhiệm vụ còn lại, các Thành viên Hội đồng đang khẩn trương triển khai do đây là các nhiệm vụ mới cần sự nghiên cứu, phối hợp với các cơ quan liên quan và có thời gian triển khai trong các năm tiếp theo.

5 khó khăn trong liên kết vùng

Bên cạnh những kết quả đạt được còn một số hạn chế, khó khăn.

(1) Chưa có nhiều liên kết vùng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp hình thành cụm liên kết ngành.

(2) Các nội dung về liên kết trong việc thực hiện quy hoạch, đầu tư phát triển, đào tạo và sử dụng lao động, xây dựng cơ sở dữ liệu hệ thống thông tin vùng, liên vùng... đã được quan tâm chỉ đạo thực hiện nhưng vẫn còn chưa nhiều.

(3) Kết cấu hạ tầng giao thông kết nối mặc dù có nhiều cải thiện nhưng chưa đồng bộ, hạ tầng ven biển còn yếu, hạ tầng có tính chiến lược chưa đồng bộ, hiện đại (như cảng biển, logistic, hạ tầng đô thị...) ảnh hưởng đến khả năng hấp dẫn nhà đầu tư.

(4) Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

(5) Chất lượng nguồn nhân lực cải thiện chậm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế.

Nguyên nhân của những khó khăn trên là do thời gian thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ mới được hơn 1 năm, trong khi các nhiệm vụ, giải pháp đề ra có tính dài hạn, thực hiện đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đồng thời, nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ chưa bảo đảm do Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 được giao từ năm 2021, trước khi các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chính phủ được ban hành. Quá trình đầu tư cơ sở hạ tầng và phát huy hiệu quả cần có thời gian và “độ” trễ nhất định.

Bên cạnh đó, còn một số khó khăn về hạ tầng đô thị, các vấn đề về môi trường có tính liên vùng; khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa thực sự là động lực cho phát triển, các hoạt động liên kết, điều phối vùng cần được quan tâm hơn nữa.

Tập trung triển khai hiệu quả Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng

Để phát huy được tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh sẵn có của các lĩnh vực, khu vực, địa phương và tháo gỡ, hóa giải những hạn chế, yếu kém, mâu thuẫn, thách thức, khó khăn, đồng thời tạo ra động lực mới, thu hút nguồn lực mới cho phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành và các địa phương trong vùng triển khai xây dựng Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 nghiêm túc, bài bản, công phu, khoa học và đúng quy định.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký ban hành Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 4/5/2024 phê duyệt Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

“Quy hoạch Vùng đồng bằng Sông Hồng vừa được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành, thể hiện sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt của người đứng đầu Chính phủ đối với việc chỉ đạo xây dựng Quy hoạch của các vùng trong cả nước. Quy hoạch vùng là căn cứ pháp lý quan trọng để các bộ, ngành và địa phương triển khai các chương trình, dự án quan trọng của vùng trong thời kỳ quy hoạch”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.

Để triển khai có hiệu quả Quy hoạch vùng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh 5 nhiệm vụ.

Thứ nhất, cần phổ biến bản Quy hoạch vùng này một cách rộng rãi, công khai, minh bạch tới người dân, doanh nghiệp các thành phần kinh tế trong và ngoài nước nhằm thu hút sự tham gia của các bên liên quan một cách hiệu quả nhất.

Thứ hai, cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, có kế hoạch cụ thể, tăng cường phối hợp với đồng bộ giữa các bộ ngành, địa phương trong vùng; phá bỏ tư duy cục bộ trước hết là trong việc triển khai thực hiện dự án có vai trò vùng.

Thứ ba, cần đổi mới tư duy, phát huy sự năng động, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành của từng bộ, ngành và địa phương, lấy khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực phát triển của Vùng. Phát triển hiệu quả, bền vững kinh tế biển theo hướng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái biển.

Thứ tư, tập trung nguồn lực thực hiện 05 nhiệm vụ trong tâm, đột phá đã đặt ra tại Quy hoạch, trong đó, ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, kết nối vùng, liên vùng và quốc tế, nhất là khai thác có hiệu quả mạng lưới giao thông đồng bộ kết nối Thủ đô Hà Nội và các cảng biển với các địa phương của vùng và liên vùng.

Thứ năm, tập trung xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các trung tâm đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, hệ sinh thái khởi nghiệp để hình thành các cụm liên kết ngành về đổi mới sáng tạo, trong đó, xác định Khu công nghệ cao Hòa Lạc, Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia là hạt nhân của các hoạt động này. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp để hình thành các chuỗi đô thị gắn với phát triển vành đai công nghiệp - đô thị - dịch vụ và vành đai kinh tế biển.

Bên cạnh đó, người đứng đầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng lưu ý, một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện thành công Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ và Quy hoạch vùng Đồng bằng Sông Hồng là rà soát các cơ chế, chính sách hiện hành để điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách đặc thù cho phát triển vùng.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan trung ương, các địa phương trong vùng Đồng bằng Sông Hồng đề xuất rà soát 5 nhóm cơ chế, chính sách, cụ thể là: (1) Nhóm chính sách về phân cấp, phân quyền thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng liên kết vùng; (2) Nhóm chính sách về phân cấp tài chính - ngân sách; (3) Nhóm chính sách về thu hút nhân tài, sử dụng nguồn nhân lực và lao động chất lượng cao; (4) Nhóm chính sách về phát triển logistics và công nghiệp hỗ trợ; (5) Nhóm chính sách về huy động, sử dụng và phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Các nội dung chính sách được rà soát, trong đó, tập trung làm rõ sự cần thiết đề xuất ban hành chính sách mới hoặc tính hiệu quả của các chính sách hiện hành.

Trên cơ sở đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tổng hợp, nghiên cứu đề xuất, kiến nghị các cấp có thẩm quyền sửa đổi, tích hợp, lồng ghép các cơ chế, chính sách và tập trung bố trí nguồn lực thực hiện để đảm bảo tính nhất quán và hiệu lực, hiệu quả./.