GRDP vùng Trung du và miền núi Bắc bộ năm 2024 tăng cao nhất cả nước
Ông Nguyễn Đức Tâm, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. (Ảnh: MPI) |
Tăng trưởng kinh tế - xã hội của vùng đạt được nhiều kết quả quan trọng
Năm 2024, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, nhất là ảnh hưởng của cơn bão số 3, tình hình tăng trưởng kinh tế - xã hội của vùng đạt được nhiều kết quả quan trọng. Cụ thể, tăng trưởng GRDP của vùng năm 2024 ước đạt 9,11%, cao nhất cả nước; còn vùng Đồng bằng sông Hồng tăng trưởng 7,88%; Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: 8,36%; Tây Nguyên: 4,6%; Vùng Đông Nam Bộ: 6,63%; Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: 7,31%
Một số địa phương có mức tăng trưởng khá cao như: Bắc Giang (cao nhất cả nước với mức tăng trưởng là 13,85%), Phú Thọ (9,53%), Tuyên Quang (9,04%). Quy mô GRDP (theo giá HH) năm 2024 ước đạt khoảng 1 triệu tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người của Vùng đạt khoảng 68-70 triệu đồng/người.
Cơ cấu GDRP khá tích cực. Trong đó, công nghiệp chiếm tỷ trọng 44,15%; Nông, lâm nghiệp và thủy sản 16,59%; Dịch vụ 34,82% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp 4,45%.
Thu ngân sách nhà nước toàn Vùng năm 2024 vào khoảng 89,243 nghìn tỷ đồng (tăng 13% so với dự toán trung ương giao), trong đó thu cân đối ngân sách địa phương đạt 73,846 nghìn tỷ đồng, vượt 11% so với dự toán. Điều đáng mừng là có 11/14 địa phương có số thu vượt so với dự toán đầu năm (có 3 địa phương hụt thu ngân sách nhà nước là Bắc Kạn, Sơn La, Điện Biên). Kim ngạch xuất khẩu (đến hết tháng 11 năm 2024) đạt trên 72 tỷ USD.
Toàn vùng có 37 khu công nghiệp đã thành lập năm 2024, có 26 khu công nghiệp đang hoạt động (chiếm tỷ lệ 70% số khu công nghiệp được thành lập). Số doanh nghiệp hoạt động, kê khai thuế toàn Vùng vào khoảng trên 44 nghìn doanh nghiệp, tăng khoảng gần 2.000 doanh nghiệp so với năm 2023; thu hút khoảng 90 dự án FDI mới với tổng số vốn đăng ký khoảng 1,8 tỷ USD (tập trung vào các tỉnh Bắc Giang, Thái Nguyên, Phú Thọ).
Môi trường kinh doanh được cải thiện, năm 2023 toàn vùng có 5/14 địa phương nằm trong nhóm 30 các địa phương có Chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh PCI tốt nhất (Bắc Giang, Phú Thọ, Lạng Sơn, Thái Nguyên và Lào Cai).
Số xã đạt chuẩn nông thôn mới quốc gia của toàn Vùng là 1.043 xã, đạt tỷ lệ khoảng 51,8%, thấp nhất so với các vùng của cả nước (bình quân cả nước đạt khoảng 78%); Tỷ lệ nghèo đa chiều của Vùng giảm khá nhưng vẫn ở mức cao nhất cả nước với 15,1% (trong đó tỷ lệ nghèo và cận nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số còn cao, ở mức 29,6%); tổng số hộ nghèo và hộ cận nghèo đa chiều là 489.160 hộ.
Toàn vùng duy trì được hơn 5,4 triệu ha rừng, tỷ lệ che phủ rừng đạt 54,04%, (cả nước bình quân 42,02%), chỉ đứng sau vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ (54,23%).
Tuy nhiên, nhìn lại năm 2024, Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm cho rằng, vùng Trung du và miền núi phía Bắc cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Thứ nhất, kinh tế của Vùng tuy tăng trưởng khá, nhưng quy mô kinh tế vùng còn nhỏ, chỉ chiếm 8% so với cả nước, 13/14 địa phương trong Vùng chưa tự cân đối thu chi ngân sách, mô hình tăng trưởng chưa thực sự bền vững, chưa dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số; chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế (23,56% lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ; 39% lao động làm việc trong ngành nông nghiệp; 72% lao động có việc làm, nhưng phi chính thức). Tỷ lệ hộ nghèo còn cao nhất so với các Vùng trong cả nước.
Thứ hai, hạ tầng giao thông kết nối vẫn là điểm nghẽn của Vùng, chưa kết nối được với Vùng Thủ đô, ra các cảng biển, đường sắt chưa kết nối được với Trung Quốc và ra quốc tế; Tiến độ thực hiện một số dự án trọng điểm của Vùng còn chậm, như tuyến Hòa Bình - Mộc Châu, điều chỉnh cao tốc Hà - Giang Tuyên Quang, hầm Hoàng Liên…
Thứ ba, liên kết hợp tác phát triển Vùng còn hạn chế, chưa đi vào chiều sâu, còn mang tính hình thức, hiệu quả còn thấp, chưa tạo ra được chuỗi sản xuất, kinh doanh mang nét đặc trưng của vùng, nhất là trong phát triển du lịch; Hệ thống cơ sở dữ liệu vùng chưa được xây dựng.
Thứ tư, cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Vùng chưa được ban hành, một số nhiệm vụ, đề án cụ thể triển khai thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị và Nghị quyết của Chính phủ về phát triển Vùng còn chưa đáp ứng được tiến độ đề ra.
Ngoài những lý do nội tại của nền kinh tế vùng miền núi phía Bắc, các lý do khách quan đã tác động đến kinh tế Vùng trong năm 2024 như sự thay đổi của các chuỗi cung ứng toàn cầu và nhưng biến động của thị trường quốc tế; ảnh hưởng của cơn bão số 3.
Một trong những thách thức lớn nhất của vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đó là hạ tầng kết nối. Dù vậy, trong thời gian tới, vùng sẽ được đẩy mạnh phát triển hạ tầng.
Toàn cảnh Hội nghị (Ảnh: MPI) |
Thời gian tới, vùng sẽ được đẩy mạnh phát triển hạ tầng
Theo Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm, hiện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tập trung báo cáo về việc tổ chức triển khai Tuyến đường cao tốc Hà Nội - Hòa Bình - Mộc Châu (Sơn La).
Đây là một tuyến đường liên kết vùng vô cùng huyết mạch của Vùng Tây Bắc nhằm phá vỡ thế độc đạo của Quốc lộ 6, tạo không gian phát triển kết nối với Thủ đô Hà Nội, tạo tiền đề để tiếp tục triển khai toàn tuyến cao tốc kết nối cửa khẩu Tây Trang, Điện Biên theo quy hoạch.
Tuyến cao tốc này hiện nay đang triển khai thực hiện theo 4 dự án độc lập. Cụ thể, đầu tiên là tuyến Hòa Lạc - Hòa Bình trên địa bàn của Hà Nội và Hòa Bình: dài 23km, đã được giao tỉnh Hòa Bình quản lý và đang được điều chỉnh chủ trương đầu tư mở rộng 6 làn xe theo hình thức đối tác công tư PPP với tổng mức đầu tư là 10.637 tỷ đồng.
Tiếp đến là tuyến Hòa Bình - Mộc Châu (km0-km19) trên địa bàn tỉnh Hòa Bình: dài 14,5km trên địa bàn tỉnh Hòa Bình: Tỉnh Hòa Bình đang phối hợp với Bộ Giao thông vận tải điều chỉnh hướng tuyến của đường liên kết Vùng để thực hiện theo quy hoạch cao tốc 4 làn xe với tổng mức đầu tư khoảng 5.800 tỷ đồng.
Tuyến Hòa Bình - Mộc Châu (km19-km53) trên địa bàn tỉnh Hòa Bình: dài 34 km, đang được thực hiện theo hình thức đầu tư công với quy mô giai đoạn 1 là 2 làn xe, tổng mức đầu tư 9.997 tỷ đồng.
Tuyến Hòa Bình - Mộc Châu trên địa bàn tỉnh Sơn La: dài 32,3 km, đang được thực hiện theo hình thức đầu tư công với quy mô giai đoạn 1 là 2 làn xe, tổng mức đầu tư là 4.938 tỷ đồng, trong đó NSTW hỗ trợ 3.400 tỷ đồng. Dự án đã được phê duyệt chủ trương đầu tư và chưa được phê duyệt quyết định đầu tư.
Sơ bộ tổng mức đầu tư của toàn tuyến là 33 nghìn tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước dự kiến bố trí là 24 nghìn tỷ đồng và giao cho 2 địa phương Hòa Bình, Sơn La thực hiện.
“Tiến độ thực hiện dự án là trong giai đoạn 2024-2027, tuy nhiên, hiện nay công tác chuẩn bị đầu tư còn đang dang dở, 3/4 dự án thành phần chưa hoàn thành thủ tục phê duyệt, điều chỉnh, trong khi nguồn vốn ngân sách trung ướng đã được bố trí đủ”, Thứ trưởng Tâm cho biết.
Do đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất, các địa phương cần chủ động, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành Trung ương triển khai 4 nội dung.
Thứ nhất, khẩn trương phê duyệt, điều chỉnh các dự án thành phần, tổ chức lựa chọn nhà thầu thi công để sớm khởi công trong năm 2025.
Thứ hai, bố trí đủ vốn ngân sách địa phương theo cam kết và tiến độ trong năm 2025, không để thiếu vốn, gây chậm tiến độ; Rà soát, đề xuất bố trí vốn đầu tư trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2026-2030 để tiếp tục hoàn thành dự án.
Thứ ba, tổ chức thực hiện dự án bảo đảm chất lượng, đúng tiến độ. Cuối cùng, nghiên cứu phương án hoàn thiện các dự án theo quy mô hoàn chỉnh theo quy hoạch để thực hiện.
Thứ trưởng cũng lưu ý, các Bộ, ngành và các địa phương nghiên cứu, lựa chọn các dự án vùng và có tính chất vùng quan trọng, cấp bách để ưu tiên nguồn vốn bố trí trong kế hoạch trung hạn 2026-2030. Các địa phương cần tập trung nguồn lực cùng với nguồn ngân sách trung ương ưu tiên bố trí cho các dự án để tăng tốc, bứt phá, tháo gỡ điểm nghẽn về hạ tầng liên kết vùng trong giai đoạn tới; phối hợp chặt chẽ với Bộ Giao thông vận tải để khởi công tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng dự kiến trong năm 2026.
Các Bộ, địa phương tập trung giải ngân số vốn đầu tư công đã được giao trong năm 2024 và năm 2025, quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt và chuẩn bị triển khai 33 dự án quan trọng, liên kết vùng đã được Bộ Chính trị và Chính phủ chỉ đạo trong các Nghị quyết về phát triển Vùng; thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các Tổ công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ rà soát, đề xuất tháo gỡ ngay các khó khăn để hoàn thành đúng tiến độ.
Đặc biệt, 05 địa phương: Cao Bằng, Hòa Bình, Sơn La, Hà Giang, Tuyên Quang sớm hoàn thiện thủ tục đầu tư phê duyệt, điều chỉnh các tuyến cao tốc đã được giao địa phương làm cơ quan chủ quản, tập trung nguồn vốn ngân sách địa phương để hoàn thành đúng tiến độ.
Các tỉnh Sơn La, Tuyên Quang sớm hoàn thiện các đề án xây dựng trung tâm chế biến nông nghiệp, lâm sản, gỗ báo cáo Thủ tướng Chính phủ./.
Bình luận