Tháng 2/2022, thông qua 12 đợt đấu thầu tại HNX, Kho bạc Nhà nước (KBNN) đã huy động được 9.380 tỷ đồng trái phiếu chính phủ; trong đó TPCP kỳ hạn 10 năm chiếm tỷ trọng phát hành lớn nhất 37,5%, tương ứng với khối lượng phát hành 3.515 tỷ đồng. So với cuối tháng 1/2022, lãi suất huy động trái phiếu chính phủ của KBNN tăng tại các kỳ hạn 10, 15, 30 năm với mức tăng từ 0,03-0,05%/năm và giữ nguyên tại kỳ hạn 20 năm. Tính từ đầu năm, giá trị trái phiếu huy động qua đấu thầu đạt 32.462 tỷ đồng.

Lãi suất huy động trái phiếu chính phủ tăng tại nhiều kỳ hạn
Lãi suất huy động trái phiếu chính phủ của KBNN tăng tại nhiều kỳ hạn

Trên thị trường giao dịch thứ cấp, giao dịch trái phiếu có diễn biến sôi động với ttổng giá trị giao dịch đạt 225.005 tỷ đồng, giá trị giao dịch bình quân đạt 14.062 tỷ đồng/phiên, tăng 4,96% so với tháng 1. Trong đó, giá trị giao dịch Repos chiếm 39,13% tổng giá trị giao dịch toàn thị trường.

Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài trong tháng 2 giảm 0,8% so với trước. Tỷ trọng giá trị giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài tháng 2 chiếm 1,59% tổng giá trị giao dịch toàn thị trường, giá trị mua ròng đạt 1.224 tỷ đồng.

Trên thị trường tiền tệ, thông báo tháng 2/2022 của Ngân hàng Nhà nước ghi nhận, lãi suất tiền gửi bằng VND bình quân của NHTM trong nước ở mức 0,1-0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 3,3-3,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 4,2-5,7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng; 5,4-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ trên 12 tháng đến 24 tháng và 6,1-6,9% đối với kỳ hạn trên 24 tháng.

Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước ghi nhận lãi suất cho vay bình quân của NHTM trong nước đối với các khoản cho vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 7,8-9,2%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân bằng VND đối với lĩnh vực ưu tiên khoảng 4,3%/năm, thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4,5%/năm).

Lãi suất cho vay USD bình quân của NHTM trong nước đối với các khoản cho vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 2,0-3,2%/năm đối với ngắn hạn; 3,4-4,3%/năm đối với trung và dài hạn.