Đó là nhận định của các chuyên gia tại hội thảo "Thực hiện hiệu quả Hiệp định CPTPP trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế: Yêu cầu hoàn thiện thể chế và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam" do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức, ngày 19/02/2020. Hội thảo do Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) hỗ trợ thực hiện.

TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM nhận định rằng, Việt Nam đã chủ động hơn trong cải cách thể chế kinh tế

CPTPP đã có đóng góp tích cực vào nền kinh tế

Tại Hội thảo, thay mặt nhóm nghiên cứu của CIEM, ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng ban Nghiên cứu tổng hợp, CIEM cho biết, quá trình thực hiện và triển khai CPTPP trong hơn 1 năm qua ghi nhận những nỗ lực nhất định của Nhà nước trong việc hoàn thiện khung khổ pháp lý, thể chế theo cam kết FTA.

Việt Nam đã tập trung hơn vào đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, hướng tới cải thiện chất lượng tăng trưởng cũng như chất lượng công tác điều hành phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt từ năm 2012. Tăng trưởng kinh tế đã có sự dịch chuyển từ chủ yếu theo chiều rộng sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011 - 2019 đạt mức khá cao, đặc biệt là trong những năm gần đây.

Dẫn Báo cáo 1 năm thực hiện CPTPP cửa Bộ Công Thương mới đây, ông Dương cho biết, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam liên tục mở rộng cả về quy mô, thị trường và mặt hàng. Tốc độ tăng trưởng xuất, nhập khẩu trung bình hàng năm giai đoạn 2007-2019 tương ứng là 15,6% và 14,2%. Cán cân thương mại chủ yếu đạt thặng dư sau năm 2011, lần lượt từ mức 748,8 triệu USD năm 2012 lên đến trên 9,9 tỷ USD năm 2019. Những kết quả này càng ấn tượng hơn trong bối cảnh kinh tế và thương mại toàn cầu có nhiều bất định, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc diễn biến phức tạp...

Hiệp định CPTPP ít nhiều đã có đóng góp tích cực vào hoạt động thương mại của Việt Nam. Với khối nước CPTPP, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam chiếm gần 30,2% giai đoạn 2007-2008 nhưng giảm dần xuống 23% giai đoạn 2009-2010 và 18% giai đoạn 2011-2018. Trong năm 2019 – năm đầu tiên thực hiện CPTPP, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang 6 nước thành viên đã phê chuẩn Hiệp định đạt 34,4 tỷ USD, tăng 8,3%, trong khi kim ngạch nhập khẩu đạt 30,1 tỷ USD, chỉ tăng 1%.

Kết quả tính toán các chỉ số thương mại của Việt Nam cho thấy, Việt Nam có lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu các mặt hàng truyền thống như giày dép, chè và cà phê, hàng mây tre, quần áo và may mặc. Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam có độ tương đồng khá cao với các đối tác như ASEAN, Trung Quốc, RCEP, CPTPP. Mức độ tương đồng xuất khẩu có xu hướng tăng trong giai đoạn kể từ năm 2008 đến nay. Chỉ số Cường độ thương mại sang thị trường CPTPP, ASEAN, RCEP đều cho thấy tầm quan trọng và tiềm năng của các thị trường này đối với Việt Nam. Hàng hóa xuất khẩu đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhập khẩu của hầu hết các đối tác quan trọng như Nhật Bản, Mỹ...

Tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ các FTA của Việt Nam đạt khoảng 39% năm 2018-2019. Hiệp định CPTPP mới bắt đầu có hiệu lực từ đầu năm 2019, do đó tỷ lệ tận dụng ưu đãi chưa cao ở một số mặt hàng, thị trường. Những ngành có tỷ lệ tận dụng cao như thủy sản, dệt may, da giày, v.v. cũng là những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu đến nhiều thị trường. Mặc dù vậy, khả năng tận dụng ưu đãi trong CPTPP của doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều dư địa để cải thiện, song khó có thể tách rời với việc khai thác các FTA khác.

Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục phát triển vững chắc. Trong giai đoạn 2010-2019, thu hút FDI của Việt Nam tăng bình quân 12,4%/năm về số dự án, 5,1%/năm về vốn đăng ký, và 7,4%/năm về vốn thực hiện. Quy mô vốn FDI thực hiện liên tục đạt những kỷ lục mới, trong đó có con số 20,4 tỷ USD năm 2019.

Niềm tin của các nhà đầu tư ngày càng được củng cố trong bối cảnh kinh tế vĩ mô ổn định, môi trường đầu tư – kinh doanh không ngừng được cải thiện theo hướng thông thoáng hơn, chính sách thu hút FDI ngày càng được hoàn thiện, bên cạnh những yếu tố khác (như xu hướng chuyển dịch đầu tư ra khỏi Trung Quốc trong bối cảnh chiến tranh thương mại với Mỹ…).

Vẫn còn nhiều chính sách và cam kết về thể chế chậm được thực thi

TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM chỉ rõ, đến thời điểm này, có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế vẫn còn rất quan trọng, song không còn là động lực chủ yếu cho cải cách thể chế kinh tế trong nước.

Việt Nam đã chủ động hơn trong cải cách thể chế kinh tế. Môi trường kinh doanh đã có những thay đổi tích cực, trong đó vai trò quan trọng khu vực tư nhân được thừa nhận và được coi là xương sống của nền kinh tế.

CPTPP bắt đầu có hiệu lực từ đầu năm 2019. Hiệp định này được kỳ vọng sẽ tạo thêm xung lực mới cho phát triển thương mại và đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa cải cách kinh tế tại Việt Nam.

“Tuy nhiên, hiệu quả thực thi và khả năng tận dụng những lợi ích tiềm năng từ Hiệp định CPTPP còn phụ thuộc vào năng lực thể chế, năng lực cạnh tranh và khả năng thích ứng của doanh nghiệp trong nước”, bà Minh chỉ rõ.

Ông Nguyễn Anh Dương cho rằng, CPTPP chưa tạo chuyển biến lớn về cơ cấu và quan hệ thương mại của Việt Nam

Cùng chung quan điểm, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập VCCI cho biết, tác động của thể chế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong bối cảnh CPTPP đã được triển khai kể từ kh hiệp định có hiệu lực từ ngày 14/01/2019.

"Trong 1 năm vừa qua, về góc độ thể chế có thể nói là quá ngắn nhưng cũng cho thấy, những vấn đề về cải cách thể chế chưa được như kỳ vọng của doanh nghiệp. Những cam kết của cơ quan quản lý nhà nước đến nay vẫn chỉ là kỳ vọng. Nhiều quy định, cam kết về thể chế được đưa vào thực tiễn quá muộn", bà Trang nêu.

Còn ông Dương chỉ rõ, so với các nước trong CPTPP, Việt Nam vẫn còn một khoảng cách về chất lượng thể chế kinh tế, thể hiện ở cả xếp hạng môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới, xếp hạng chỉ số quản trị toàn cầu; chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu. Dù vậy, Việt Nam đã cải thiện chất lượng thể chế liên tục và nhất quán.

Hơn nữa, CPTPP chưa tạo chuyển biến lớn về cơ cấu và quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước, do sức hút của thị trường Mỹ còn quá lớn, trong khi sự chuẩn bị của doanh nghiệp Việt Nam để mở rộng tiếp cận các thị trường trong sân chơi CPTPP là chưa nhiều. “Thậm chí, nhiều doanh nghiệp trăn trở làm thế nào để đưa mặt hàng thủy sản vào thị trường Trung Quốc, còn CPTPP hay EVFTA là thứ rất xa vời”, ông Dương đưa dẫn chứng.

Tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) của Việt Nam chỉ đạt khoảng 39% trong năm 2018-2019. Với hiệp định mới mới có hiệu lực từ năm 2019 như CPTPP, tỷ lệ tận dụng lợi thế từ CPTPP của doanh nghiệp là chưa cao, một số mặt hàng, thị trường.

Còn tỷ lệ tận dụng CPTPP cao là rơi vào những ngành hàng Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu như thủy sản, dệt may, da giày… Dư địa để doanh nghiệp Việt Nam tận dụng ưu đãi trong CPTPP còn rất lớn nhưng khó có thể tách rời với việc khai tác các FTA khác.

Ngoài ra, CPTPP nằm trong số những hiệp định thương mại có yêu cầu cao nhất liên quan đến môi trường, và nhìn chung phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam về môi trường cũng như định hướng của Việt Nam về phát triển bền vững.

Việc thực hiện các cam kết về môi trường không chỉ có ý nghĩa chuẩn bị cho CPTPP mà xuất phát từ yêu cầu nội tại của nền kinh tế. Vì thế, “Dù đã có nhiều chuyển biến về xây dựng và thực thi chính sách, Việt Nam vẫn cần tích cực chuẩn bị đáp ứng các yêu cầu về môi trường trong CPTPP”, ông Dương lưu ý.

Cần làm gì để phát huy lợi thế của CPTPP

Với nhiều vấn đề tồn tại như trên, chia sẻ với báo chí bên lề ông Nguyễn Anh Dương cho biết, điều quan trọng nhất từ bài học của CPTPP đối với EVFTA và có thể là các hiệp định FTA sau này, mà Việt Nam cần lưu tâm là thực sự hiểu chúng ta muốn gì trong dài hạn.

“Chúng ta hiểu gì về hiệp định khi tính đến yêu cầu nội tại phát triển của mình để trên cơ sở đó thì bắt đầu chúng ta có được hình dung về mảnh ghép CPTPP, mảnh ghép EVFTA và các FTA khác phù hợp với bức tranh phát triển kinh tế tổng thể của Việt Nam như thế nào?”, ông Dương lưu ý.

Ông Dương chỉ rõ, việc nhiều nước CPTPP đứng đầu hoặc có xếp hạng rất cao về các khía cạnh của môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh cũng được nhìn nhận là một yếu tố tích cực, đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục cải thiện thông qua nỗ lực tự thân và tận dụng hỗ trợ kỹ thuật của đối tác.

Ở cấp độ doanh nghiệp, các doanh nghiệp ít nhiều đã có sự quan tâm, tìm hiểu về CPTPP. Dù vậy, doanh nghiệp còn phải điều chỉnh, xử lý một số vấn đề quan trọng để sẵn sàng hơn đối với CTPPP. Cụ thể, về mức độ hiểu biết, các doanh nghiệp còn quá lưu tâm đến những vấn đề ngắn hạn; mới chỉ hiểu về thuế quan và cắt giảm thuế quan, chứ chưa thực sự hiểu đầy đủ và có hệ thống về các khía cạnh khác như quy tắc xuất xứ, SPS, TBT… và thiếu các thông tin về mạng lưới nhà cung cấp trong nước và ngoài nước.

Doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội không nhỏ từ CPTPP, bao gồm (i) mở rộng thị trường, gia tăng xuất khẩu, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; (ii) tiếp cận nguồn vốn đầu tư; (iii) tiếp cận công nghệ, kỹ năng quản lý nước ngoài; và (iv) cải thiện hiệu quả hoạt động khi thể chế kinh tế thị trường trở nên hoàn thiện hơn. Dù vậy doanh nghiệp cũng phải xử lý hiệu quả những thách thức, đặc biệt trong việc cải thiện khả năng cạnh tranh; khả năng tận dụng cơ hội, đặc biệt là hài hòa việc thực hiện CPTPP với các tuyến hội nhập khác.

“Tác động đối với doanh nghiệp sẽ tích cực hơn nếu Chính phủ củng cố hơn nữa đồng thuận xã hội về tiến trình và các biện pháp cải cách, cân bằng các mục tiêu chính sách, đồng thời tạo dựng thêm không gian chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp”, thay mặt nhóm nghiên cứu, ông Dương lưu ý.

Ông Dương cũng chỉ rõ, việc thực thi hiệu quả Hiệp định CPTPP đòi hỏi phải xử lý một số yêu cầu về thể chế, bao gồm (i) hiểu đúng và đầy đủ các nội dung pháp lý trong CPTPP; (ii) cải thiện hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan; và (iii) kịp thời rà soát và ban hành các văn bản pháp luật thực thi CPTPP.

TS. Lê Đăng Doanh nhấn mạnh rằng, một yếu tố rất quan trọng để tạo bước tiến trong hoàn thiện thể chế, nâng cao sức cạnh tranh cho cộng đồng doanh nghiệp đó là các bộ, ngành phải công khai, minh bạch, nhất là các bước giải quyết thủ tục hành chính.

"Nếu thực hiện đầy đủ các cam kết công khai minh bạch chúng ta sẽ có bước tiến đáng kể và sẽ tiết kiệm được khá nhiều nguồn vốn", TS. Lê Đăng Doanh nhấn mạnh.

TS. Nguyễn Thị Thu Trang thì cho rằng, các thể chế yêu cầu của Hiệp định CPTPP rất gần với Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA).

“Cơ hội về kinh tế trong CPTPP có thể là thấp, nhưng nếu cộng hưởng với EVFTA thì sẽ rất lớn, để Việt Nam hiện thực hoá cải cách kinh tế. Đồng thời, tận dụng ưu đãi thuế quan để xuất khẩu, thúc đẩy công nghiệp phụ trợ phát triển và tự chủ được nguồn nguyên vật liệu để xuất khẩu, tận dụng được thuế quan”, bà Trang nêu quan điểm.

Dù cho rằng có thể tác động từ việc gia nhập CPTTP trong ngắn hạn là chưa nhiều, nhưng TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh khẳng định, đây là động lực để Việt Nam thúc đẩy cải cách thể chế.

“Vấn đề quan trọng của việc tham gia CPTPP hay các FTA không phải chỉ để thực hiện các cam kết trong hiệp định, mà điều quan trọng hơn là phải vượt lên các cam kết đó. Nhìn từ sự phát triển của thương mại điện tử hay sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ, có thể rất nhiều điều trong thương mại điện tử chúng ta chưa cam kết trong các FTA”, ông Thành phát biểu./.