Trong giờ khắc chuẩn bị chuyển giao sang năm 2021, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương đã có những chia sẻ với phóng viên Tạp chí Kinh tế và Dự báo về những dấu ấn của năm 2020 và những kỳ vọng năm 2021.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương

Chúng ta đã có một năm thành công!

PV: Tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương, sáng ngày 28/12/2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đánh giá: “Mặc dù không hoàn thành được một số chỉ tiêu đề ra từ đầu năm, chủ yếu do nguyên nhân khách quan, nhưng năm 2020 vẫn được xem là năm thành công hơn năm 2019 và là năm thành công nhất trong 5 năm vừa qua”. Xin Thứ trưởng điểm lại những dấu ấn, thành công của năm 2020?

Thứ trưởng Trần Quốc Phương: Năm 2020, dù trong muôn vàn khó khăn bởi đại dịch Covid-19 và sự suy thoái nghiêm trọng của kinh tế thế giới kể từ Đại suy thoái 1929-1932, kinh tế nước ta vẫn kiên cường duy trì tăng trưởng dương. Theo tính toán của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), quy mô kinh tế nước ta giờ đây đã đạt hơn 340 tỷ USD – đứng trong Top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, tương đương hoặc vượt qua một số nền kinh tế có trình độ phát triển cao trong khu vực, kể cả một số con hổ của Đông Á. Tạp chí Nhà Kinh tế của Anh xếp Việt Nam trong top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), với tăng trưởng kinh tế bình quân 6,8%/năm trong giai đoạn 2016-2019, Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất thế giới.

Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, chất lượng tăng trưởng được nâng lên, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2016-2019 bình quân 6,8%/năm. Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, nhưng tăng trưởng cả năm 2020 đạt 2,91%; là mức tăng trưởng cao hàng đầu thế giới.

Quy mô GDP tăng khoảng 1,4 lần so với năm 2015 (theo IMF, năm 2020 Việt Nam có thể trở thành nền kinh tế đứng thứ 4 ASEAN); GDP bình quân đầu người năm 2020 ước đạt khoảng 2.750 USD. Năng suất lao động được cải thiện rõ nét, bình quân giai đoạn 2016-2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011-2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30%-35%). Tăng trưởng từng bước chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều sâu, ngày càng dựa vào khoa học, công nghệ. Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm từ 18,6% năm 2011 xuống còn dưới 4% trong giai đoạn 2016-2020. Tỷ giá, thị trường ngoại hối khá ổn định; lãi suất có xu hướng giảm dần; cán cân thanh toán thặng dư; hệ số tín nhiệm quốc gia được cải thiện.

Kỷ cương, kỷ luật tài chính được tăng cường. Thu ngân sách nhà nước năm 2020 đạt 96% dự toán. Cơ cấu lại ngân sách nhà nước đạt kết quả tích cực, tỷ trọng thu nội địa tăng lên 81,6% (giai đoạn 2011-2015 là 68,7%); tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng lên 27%-28%, tỷ trọng chi thường xuyên giảm còn 62%-63%. Bội chi ngân sách nhà nước và nợ công được kiểm soát trong giới hạn an toàn và giảm so với giai đoạn trước. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đạt khoảng 33,4%.

Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2020 ước đạt 543,9 tỷ USD, xuất siêu 5 năm liên tiếp (năm 2020 ước đạt 19,1 tỷ USD). Thị trường nội địa được chú trọng; quản lý thị trường, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại được tăng cường.

Với những dấu ấn đó, tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương, sáng ngày 28/12/2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá: “Mặc dù không hoàn thành được một số chỉ tiêu đề ra từ đầu năm, chủ yếu do nguyên nhân khách quan, nhưng năm 2020 vẫn được xem là năm thành công hơn năm 2019 và là năm thành công nhất trong 5 năm vừa qua”.

Giải ngân vốn đầu tư công - điểm sáng trong bức tranh kinh tế năm 2020

PV: Sau nhiều năm giải ngân đầu tư công chậm tiến độ, năm 2020, “căn bệnh trầm kha” này đã được xử lý và trở thành điểm sáng trong bức tranh kinh tế. Vậy đâu là lực đẩy khơi thông dòng vốn đầu tư công vào nền kinh tế trong năm qua, thưa Thứ trưởng?

Thứ trưởng Trần Quốc Phương: Đúng là chưa bao giờ, tốc độ giải ngân đầu tư công lại nhanh và mạnh như năm 2020. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, thực hiện giải ngân đến hết tháng 11/2020 là 329.868,24 tỷ đồng, đạt 70,1% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (470.600 tỷ đồng); Ước giải ngân đến 31/12/2020 là 389.982,80 tỷ đồng, đạt 82,8% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (470.600 đồng). Đây là năm có tỷ lệ giải ngân cao nhất trong cả giai đoạn 2016-2020 (cùng kỳ năm 2016 đạt 80,3%; năm 2017 đạt 73,3%; năm 2018 đạt 66,87% và năm 2019 đạt 67,46%). Đối với số vốn kéo dài các năm trước sang năm 2020, thực hiện giải ngân 11 tháng đạt 63,8% kế hoạch; ước giải ngân 12 tháng đạt 75% kế hoạch.

Tốc độ giải ngân đầu tư công tăng mạnh như vậy là do 2 nguyên nhân:

Một là, sự quyết tâm, chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Nhìn lại năm qua có thể thấy, với diễn biến phức tạp và nghiêm trọng của dịch Covid-19 tại nhiều quốc gia trên thế giới từ đầu năm 2020, các tác động trước tiên sẽ ảnh hưởng tới khu vực sản xuất, kinh doanh của Việt Nam. Khi khu vực sản xuất, kinh doanh bị ảnh hưởng, hoạt động đầu tư sẽ ngay lập tức bị tác động làm giảm đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là khu vực FDI và ngoài nhà nước. Vì thế, việc tập trung đẩy nhanh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công sẽ là động lực nhằm kích cầu đầu tư xã hội, thúc đẩy sản xuất, tạo việc làm, duy trì đà tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đã được kiểm soát tốt tại Việt Nam.

Chính vì vậy, quyết tâm đẩy mạnh đầu tư công là từ khóa quan trọng nhất cần ghi nhận của năm 2020. Ngay từ đầu năm, vốn đầu tư công được xác định không chỉ là vốn “mồi” mà phải trở thành nguồn lực chính thúc đẩy phục hồi kinh tế trong dịch Covid-19. Do đó, chưa có năm nào quyết tâm giải ngân hết kế hoạch vốn đầu tư công lại mạnh mẽ như năm nay.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ liên tục có chỉ đạo với những giải pháp quyết liệt tại các nghị quyết, chỉ thị; các hội nghị giao ban trực tuyến đôn đốc triển khai công tác đầu tư công liên tục được tổ chức trong các tháng 4, 7, 8 và 10/2020. Đồng thời, để trực tiếp đôn đốc, vướng mắc giải ngân vốn đầu tư công, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo, thành lập các Đoàn công tác do đích thân Thủ tướng Chính phủ dẫn đầu và các đoàn đo Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng các bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính làm trưởng đoàn. Theo đó, quyết tâm từ các cấp cao nhất đã được lan tỏa xuống cấp thực thi ở cơ sở, tạo ra những kỷ lục trong thực hiện dự án đầu tư công.

Hai là, do sự thay đổi tích cực của chính sách và quy định pháp luật. Năm 2019, Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13 (Luật số 49) hết hiệu lực thi hành và bắt đầu từ năm 2020 Luật Đầu tư công số 39/2019/QH14 (Luật số 39) chính thức có hiệu lực, trong đó Kế hoạch đầu tư công năm 2021 là kế hoạch đầu tiên thực hiện quy định mới. Một trong những điểm mới đó là thay đổi thời gian giải ngân vốn kế hoạch đầu tư công. Theo đó, Luật số 39 buộc các bộ, ngành, địa phương giải ngân tốt hơn, nếu không sẽ bị trừ vào Kế hoạch đầu tư công trung hạn. Vì thế, nhiều dự án phải nỗ lực hoàn thành giải ngân trong năm 2020, trước khi Luật mới có hiệu lực…

Những nguyên nhân trên đã thúc đẩy tiến độ giải ngân đầu tư công, đặc biệt từ tháng 10 đến hết năm, có 17 bộ, cơ quan trung ương và 17 địa phương ước tỷ lệ giải ngân đến 31/12/2020 đạt trên 80%.

PV: Nhiều chuyên gia đã nhận định rằng, tăng trưởng dương của Việt Nam năm 2020 là nhờ kết quả của giải ngân đầu tư công. Xin Thứ trưởng cho biết quan điểm của mình về nhận định trên?

Thứ trưởng Trần Quốc Phương: Ở góc độ cá nhân tôi đánh giá, thì năm nay, giải ngân đầu tư công là động lực tích cực cho tăng trưởng GDP, chứ không phải là động lực duy nhất.

Ở góc độ kinh tế, chúng ta đều biết rằng, theo phương pháp sản xuất, công thức tính GDP bao gồm giá trị tăng thêm của 03 khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ và theo phương pháp tiêu dùng, công thức tính GDP bao gồm các yếu tố tiêu dùng của Chính phủ và người dân, đầu tư (bao gồm cả đầu tư công) và chênh lệch xuất nhập khẩu. Tất cả các yếu tố này đều có đóng góp vào tăng trưởng. Do đó, không thể nói kết quả tăng trưởng dựa vào 1 động lực duy nhất. Ở đây, có thể đề cập theo hướng, trong tất cả các động lực giúp tăng trưởng thì động lực nào đóng góp cao nhất và tích cực nhất.

Riêng với năm 2020, có thể khẳng định đầu tư công là động lực tích cực cho tăng trưởng GDP. Đơn cử, lấy ví dụ như thế này, Nếu GDP là 100%, tổng đầu tư toàn xã hội chiếm khoảng 34% GDP, đầu tư công chiếm 25% của tổng đầu tư toàn xã hội, nghĩa là chiếm khoảng 8,5% của GDP. Con số này là tính đến đóng góp trực tiếp, chưa tính tác động lan tỏa của đầu tư công cho GDP. Điều này cũng khẳng định rằng, đầu tư công có một vai trò rất quan trọng, nhưng không phải là duy nhất.

Những động lực và giải pháp thúc đẩy tăng trưởng năm 2021

PV: Kịch bản tăng trưởng GDP năm 2021 là 6%. Nhiều chuyên gia, tổ chức kinh tế đánh giá mức tăng trưởng này có vẻ “hơi thận trọng”. Xin Thứ trưởng lý giải vì sao chúng ta lại đặt ra 6%, mà không phải là mức cao hơn?

Thứ trưởng Trần Quốc Phương: Năm 2021 có nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khóa XV, là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030.

Sau 35 năm đổi mới, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều với nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc, chính trị - xã hội ổn định, vị thế uy tín quốc tế cao. Việt Nam được đánh giá là quốc gia nhiều tiềm năng, có thị trường gần 100 triệu dân với thu nhập ngày càng tăng, cơ cấu dân số vàng; không gian phát triển rộng mở với 14 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Tuy nhiên, chúng ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức.

Năm 2021, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, cạnh tranh chiến lược giữa một số quốc gia, khu vực tiếp tục diễn ra gay gắt. Đại dịch Covid-19 chưa thể sớm kết thúc, tác động tiêu cực có thể kéo dài, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, nhất là đối với đầu tư, thương mại, dịch vụ, du lịch, vận tải hàng không.

Ở trong nước, tác động của dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn tiếp tục diễn biến phức tạp, yêu cầu nhiệm vụ cho đầu tư phát triển, phòng, chống dịch, bảo đảm an sinh xã hội rất lớn trong bối cảnh nguồn lực hạn chế. Các xu hướng mới về dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, cùng với sự thay đổi nhanh chóng của các mô hình kinh doanh, phương thức sản xuất, tiêu dùng, giao tiếp xã hội, khoa học - công nghệ…, vừa là thời cơ, vừa là thách thức.

Do đó, mục tiêu kế hoạch tăng trưởng năm 2021 được tính toán, cân nhắc tất cả các yếu tố thuận lợi, khó khăn nhưng cũng là thách thức lớn, đòi hỏi tiếp tục sự nỗ lực, cố gắng của tất cả các cấp, các ngành, các địa phương, bởi năm 2021 là năm khởi đầu của chu kỳ 5 năm kế hoạch kinh tế - xã hội mới 2021-2025, đóng vai trò tạo đà thúc đẩy, làm động lực cho các năm kế hoạch tiếp sau. Do đó, đánh giá, nhìn nhận các nguồn lực trong nước, diễn biến kinh tế trong và ngoài nước, một cách thực tế, khách quan, thẳng thắn để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2021 đã được Chính phủ và các bộ, ngành nghiêm túc thực hiện khi đưa ra mục tiêu tăng trưởng 6%.

Tuy nhiên, như Thủ tướng cũng nêu bật tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ trong cuối năm 2020, chúng ta sẽ nỗ lực hết sức để tăng trưởng hơn Kế hoạch đặt ra là 0,5%. Với những gì Việt Nam đã đạt được trong năm 2020, tôi hoàn toàn có lòng tin với kỳ vọng mà Thủ tướng Chính phủ đặt ra.

PV: Vậy, động lực chính cho tăng trưởng 2021 và các giải pháp để có thể đạt mục tiêu kế hoạch năm 2021 là gì, thưa Thứ trưởng?

Thứ trưởng Trần Quốc Phương: Động lực tăng trưởng năm 2021 tiếp tục sẽ là các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với nhiều dự án lớn đang được đầu tư, triển khai, nhiều doanh nghiệp tập trung ở các ngành: sản xuất, chế biến thực phẩm; dệt may, da giầy; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa, giấy và sản phẩm từ giấy; sản xuất kim loại, sản phẩm từ kim loại đúc sẵn.

Ngành xây dựng dự báo sẽ tiếp tục đà tăng trưởng của năm 2020, với các dự án đường cao tốc đang được triển khai và sẽ hoàn thành trong năm 2021.

Dự báo các ngành dịch vụ, như: bán buôn, bán lẻ, thông tin truyền thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và các hoạt động dịch vụ phi thị trường, như: y tế, giáo dục, quản lý nhà nước tiếp tục duy trì mức tăng trưởng khá trong năm 2021. Các ngành dịch vụ có mức tăng trưởng âm trong năm 2020 do ảnh hưởng của dịch Covid-19, như: dịch vụ lưu trú, ăn uống, vận tải, du lịch… sẽ được phục hồi trong năm 2021.

Để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng 6% trong kế hoạch năm 2021, ngoài việc tiếp tục khuyến khích, tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất đã hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 2020, chúng ta cũng cần sự sát sao, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành và thực thi nhiệm vụ.

Chắc chắn là trong năm 2021, chúng ta vẫn tiếp tục thực hiện “mục tiêu kép” một cách linh hoạt, hiệu quả. Việc phòng, chống dịch Covid-19 vẫn là ưu tiên hàng đầu, trở thành điều kiện cần quan trọng nhất để triển khai các giải pháp, chính sách về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước. Việc mở cửa lại giao thương, đi lại với thế giới vẫn cần phải được xem xét và có bước đi thận trọng.

Chúng ta cần tranh thủ tận dụng thời cơ và cơ hội, đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, cũng như 3 đột phá chiến lược nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong đó, cần đặc biệt đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng tạo ra nhiều hơn giá trị gia tăng trong sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, cần tăng tỷ trọng các ngành chế biến, chế tạo, công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ gắn với công nghệ thông minh, chuyển đổi số; đẩy nhanh tiến độ các dự án công nghiệp lớn, có tác động lan toả. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng hiệu quả cao, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao giá trị trên một đơn vị diện tích, phù hợp với từng vùng miền, phát triển sản xuất quy mô lớn theo nhu cầu thị trường.

Khẩn trương lập đề án xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng để tận dụng các cơ hội dịch chuyển dòng vốn, xu hướng đầu tư trên toàn cầu. Tập trung hoàn thiện nhanh khung khổ pháp lý kết hợp triển khai thử nghiệm các loại hình kinh doanh mới, kinh tế số, cung cấp dịch vụ công...

Tập trung cao độ đẩy nhanh công tác lập quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia theo quy định của Luật Quy hoạch. Đặc biệt, ngay từ năm 2021, cần tập trung nguồn lực cho các dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, cảng hàng không quốc tế Long Thành, các tuyến đường ven biển, tuyến giao thông kết nối, cảng biển, sân bay, đường cao tốc, hạ tầng các khu công nghiệp, khu kinh tế ven biển...

Năm 2021, với sự xuất hiện của vắc-xin Covid-19, khả năng kinh tế, các chuỗi cung ứng, thị trường và thương mại thế giới sẽ phục hồi nhanh hơn dự báo, giá cả hàng hóa thế giới sẽ có biến động mạnh, tác động đến tình hình lạm phát và diễn biến chỉ số CPI trong nước. Điều này đòi hỏi công tác điều hành giá, nhất là giá cả các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước điều hành cần thận trọng, bám sát diễn biến tình hình giá cả hằng tháng để có quyết định điều chỉnh phù hợp.

Về thu hút đầu tư nước ngoài, chúng ta cần xây dựng kế hoạch, phương thức cụ thể để thu hút đầu tư nước ngoài, tập trung thu hút các nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu thế giới, các nước nắm giữ công nghệ nguồn có năng lực quản trị hiện đại, năng lực cạnh tranh cao đầu tư vào Việt Nam.

Đặc biệt, cần đổi mới phương thức và chương trình đào tạo nguồn nhân lực, tập trung đào tạo thực hành kết hợp với lý thuyết để có đội ngũ lao động thực hành giỏi, đáp ứng nhu cầu theo xu thế vận hành của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0.

PV: Với vai trò Tổng tham mưu trưởng của nền kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ đặt trọng tâm vào công tác nào trong năm 2021, thưa Thứ trưởng?

Thứ trưởng Trần Quốc Phương: Thực tế cho thấy, trong 75 năm xây dựng và phát triển, toàn ngành Kế hoạch và Đầu tư, với bản lĩnh, trí tuệ và sự đổi mới không ngừng nghỉ của mình, đến nay, hơn lúc nào hết đã khẳng định được vai trò “kiến trúc sư trưởng của nền kinh tế”.

Cụ thể, trong nhiệm kỳ 2016-2020, ngành đã có những đóng góp không nhỏ trong công cuộc cải cách thể chế, tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, xây dựng và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng thông thoáng, cởi mở, theo hướng kiến tạo phát triển; chủ động tham mưu, đề xuất những giải pháp, chính sách có tính chất nền tảng để nền kinh tế vững tin tiến về phía trước, nhất là Chiến lược quốc gia về cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0, xây dựng Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia...

Năm 2021, đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với nhiều cơ hội và thách thức đan xen, cũng như tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Trong bối cảnh đó, toàn ngành nói chung, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói riêng sẽ cố gắng làm tốt công tác thống kê, dự báo, để tham mưu với Chính phủ có những động thái hành động, những chính sách kịp thời nhất, sát nhất, tùy bối cảnh bên ngoài và năng lực nội tại của đất nước.

Phương châm hành động của toàn ngành nói chung, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói riêng trong giai đoạn tới là “Phát huy truyền thống đoàn kết, trí tuệ, bản lĩnh; nêu cao tinh thần trách nhiệm, kỷ cương, liêm chính, chủ động, sáng tạo, hiệu quả, thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị giai đoạn 2021-2025”.

PV: Xin trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!