.

Nhiều bất cập trong ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp

Bộ trưởng Nguyễn Quân cho biết, số liệu hơn 10.000 người làm công tác khoa học công nghệ đó là đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Kinh phí dành cho hoạt động nghiên cứu không phải là hàng nghìn tỷ đồng, bởi vì còn gồm cả chi thường xuyên (30-40%), chỉ còn trên dưới 60% dành cho hoạt động nghiên cứu, bao gồm hoạt động cấp bộ và cấp Nhà nước.

“Nếu tính trên 10.000 cán bộ nghiên cứu hay trên 100 Viện, Trung tâm nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thì lượng kinh phí này là rất nhỏ”, Bộ trưởng chỉ rõ.

Tuy còn nhiều bất cập trong hoạt động ứng dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, nhưng nếu nói ngành nông nghiệp của ta chưa phát triển gì đáng kể thì chưa thật khách quan. Bởi vì từ chỗ phải nhập khẩu lương thực, hiện nay nước ta đã có thứ hạng trong xuất khẩu gạo.

Một năm chúng ta xuất khẩu các mặt hàng nông sản và thủy sản đạt khoảng 30 tỷ USD, chiếm 20% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.

“Nếu hàng nông sản, thủy sản của chúng ta không đạt tiêu chuẩn quốc tế thì không thể xuất khẩu được số lượng lớn như vậy”, Bộ trưởng nói.

Chúng ta có nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp lớn như Công ty Bảo vệ thực vật An Giang có 2 viện nghiên cứu, hay ở phía Bắc có các đơn vị khoa học công nghệ ở Thái Bình, Nghệ An. Những đơn vị này đã làm rất tốt việc đầu tư khoa học công nghệ cho nông nghiệp và có hiệu quả lớn.

Vẫn chưa thể áp dụng công nghệ bảo quản của Nhật Bản, Israel

Về việc áp dụng công nghệ bảo quản tiên tiến nhất của Nhật Bản, Israel để đảm bảo cho người nông dân có được sản phẩm có giá trị tối đa, Bộ trưởng Nguyễn Quân chia sẻ: “Thời gian 1 năm đúng là dài, nhưng để làm chủ 1 công nghệ và đưa vào ứng dụng sản xuất trên quy mô công nghiệp thì cũng không phải là dài”.

Năm 2013, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tiếp cận công nghệ CAS của Nhật Bản và công nghệ của hãng Juran (Israel) trong bảo quản thực phẩm. Chúng ta đã làm chủ được công nghệ CAS và đã thí nghiệm thành công trên cá ngừ, tôm sú và quả vải thiều. Vụ vải vừa rồi, 1 container vải được bảo quản theo công nghệ CAS đã đến thị trường Nhật Bản và được đánh giá cao.

Tương tự như vậy với cá ngừ, hiện, đang chuẩn bị đầu tư nhà máy bảo quản cá ngừ theo công nghệ CAS ở Phú Yên.

“Chúng tôi hy vọng việc tự sản xuất được thiết bị câu cá ngừ đại dương cùng với nhà máy sử dụng công nghệ CAS, sắp tới cá ngừ của Phú Yên và Bình Định sẽ được bán sang Nhật Bản với số lượng nhiều và chất lượng tốt hơn”, Bộ trưởng nói.

Phải nhanh chóng tự túc được giống

Trước ý kiến cho rằng, việc cho phép sản xuất các loại lương thực, ngũ cốc biến đổi gen là lợi bất cập hại, Bộ trưởng Nguyễn Quân cho biết, trên thế giới hiện nay có 2 xu hướng trái ngược nhau.

Một số quốc gia rất tích cực trong việc trồng cây trồng biến đổi gen như Hoa Kỳ và một số nước châu Á. Riêng các nước châu Âu lại có xu hướng rất thận trọng và không muốn sử dụng cây trồng biến đổi gen, đặc biệt là cây lương thực.

Ở Việt Nam trong nhiều năm qua đã trồng khảo nghiệm 3 loại cây là bông, đỗ tương và ngô. Đối với cây ngô, đỗ tương thì có nhiều ý kiến trái chiều. “Cho tới thời điểm này chưa có nghiên cứu nào cho thấy cây ngô và đỗ tương biến đổi gen có ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Thực tế trong nhiều thập kỷ qua, Hoa Kỳ và Nhật Bản và một số nước khác cho canh tác cây trồng biến đổi gen trên diện tích rất lớn”, Bộ trưởng nói.

Tuy nhiên, lo ngại của bà con nông dân cũng có ý đúng là chúng ta bị phụ thuộc về giống bởi chưa làm chủ công nghệ về giống đối với cây trồng biến đổi gen.

“Vì thế, song song với việc cho phép trồng cây trồng biến đổi gen, lực lượng làm công tác nghiên cứu khoa học của chúng ta phải nhanh chóng làm chủ được khoa học công nghệ để tự túc được giống, đồng thời vẫn phải nghiên cứu những ảnh hưởng của cây trồng biến đổi gen đối với sức khỏe con người”, Bộ trưởng nhấn mạnh./.