Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Vương Đình Huệ phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: Huy Thắng

Đây là một trong những ý kiến của Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương, GS, TS. Vương Đình Huệ tại Hội thảo “Kinh tế vùng trong quá trình tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở Việt Nam” do Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức tại Hà Nội ngày 3/4/2016.

Chưa xóa được tình trạng “cát cứ” kinh tế

Thực tế, vấn đề kinh tế vùng và liên kết vùng đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam nhận thức rất sớm, ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VIII. Các kỳ Đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI đều tiếp tục xác định rõ định hướng chiến lược phát triển vùng. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn Quốc lần thứ XII vừa diễn ra rất thành công, đã nêu rõ: “Thống nhất quản lý tổng hợp chiến lược, quy hoạch phát triển trên quy mô toàn bộ nền kinh tế, vùng và liên vùng… Khắc phục tình trạng nền kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính, hoặc đầu tư dàn trải, trùng lặp. Xây dựng một số đặc khu kinh tế để tạo cực tăng trưởng và thử nghiệm thể chế phát triển vùng có tính đột phá”.

Cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chính sách phát triển vùng, từ năm 2000 đến nay, Chính phủ và Thủ tướng đã ban hành khá nhiều văn bản liên quan, từ phê duyệt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng, từ quy chế phối hợp, tổ điều phối vùng…

Tuy nhiên, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương GS, TS. Vương Đình Huệ thẳng thắn đánh giá, mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định trong thực hiện chủ trương, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế vùng, nhưng cũng còn nhiều hạn chế.

Cách phân vùng kinh tế - xã hội còn nhiều mặt hạn chế để phát huy lợi thế so sánh từng vùng. Quy hoạch tổng thể và quy hoạch ngành theo vùng như hiện nay chưa thực sự là công cụ hữu hiệu trong định hướng, điều phối, phân bổ ngân sách, thu hút đầu tư, quản trị không gian kinh tế - xã hội, đặc biệt là thực hiện vai trò ràng buộc liên kết nội vùng.

Các vùng kinh tế trọng điểm chưa thực sự phát huy vai trò đầu tàu, có tác dụng lan tỏa, hiệu quả đầu tư chưa thực sự vượt trội, chưa có sự liên kết các địa phương yếu, thiếu các chuỗi giá trị liên kết kinh tế nội vùng và liên vùng.

Một hệ quả là, xu thế tất cả các vùng đều vận động sự phát triển gần như theo cùng một hướng về cơ cấu kinh tế.

“Áp lực chỉ tiêu " đạt được mục tiêu quốc gia về công nghiệp hóa", khiến chiến lược phát triển các tỉnh, thành và các vùng đều copy chiến lược quốc gia và thu nhỏ lại, chứ chưa đậm tính đặc thù địa phương”. GS, TS. Vương Đình Huệ nói.

Thực tế, việc thiếu thể chế quản trị, điều phối vùng hiệu quả đi cùng với chất lượng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng hiện còn hạn chế. Ở cấp địa phương, nhiều quy hoạch không cần thiết đã gây ra lãng phí và phức tạp trong thực hiện.

Có cùng quan điểm, PGS,TS. Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, kinh tế nước ta hiện được tổ chức theo đơn vị "tỉnh". Các tỉnh độc lập với nhau về quyền lực điều hành và lợi ích, trên cả hai tuyến quản lý hành chính và ngân sách.

Điều này dẫn đến trạng thái nền kinh tế theo phong cách “tỉnh ta”, khá kỳ lạ với một nền kinh tế thị trường. Thậm chí, ngoài việc gây lãng phí nguồn lực phát triển trên quy mô lớn, còn hình thành xu hướng đua tranh không lành mạnh, cùng đi xuống, cạnh tranh ví dụ hạ giá đất đai, ưu đãi quá mức… cố gắng chạy đua xây dựng sân bay, cảng biển, tất cả vì thành tích ảo.

“Nền kinh tế quốc gia được cấu thành từ 64 nền kinh tế giống hệt nhau, nhưng độc lập với nhau. Đó là 63 nền kinh tế địa phương cộng với 1 nền kinh tế trung ương”, ông Thiên chua xót.

Cần xây dựng cơ chế rõ ràng, tạo sức mạnh lan tỏa

Trưởng ban Kinh tế Trung ương Vương Đình Huệ cho rằng, quá trình tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo vùng có cần được xác định như một bộ phận của tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng quốc gia.

Dù mang lại nhiều lợi ích, nhưng cần phải tính toán để tránh việc phát sinh thêm một cấp hành chính nhưng không mang lại hiệu quả tương xứng. Cần phân định rõ chức năng vùng và địa phương, ban hành rõ thẩm quyền, quyền hạn, nhưng phải rõ ràng khoa học, loại bỏ sự chồng lấn trong phân vùng, giữa vùng với địa phương. Mục tiêu quan trọng nhất là phát triển vùng trên cơ sở lợi thế so sánh của từng địa phương, khắc phục không gian kinh tế bị chia cắt bởi địa giới hành chính, sử dụng tốt nhất nguồn lực của Nhà nước và các thành phần kinh tế để đầu tư, đặc biệt là giao thông, nông thôn mới…

Với các vùng kinh tế trọng điểm, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Vương Đình Huệ cho rằng, cần cân nhắc để ban hành chính sách cạnh tranh với các trung tâm kinh tế khu vực ASEAN, châu Á và trên thế giới; quy định rõ vùng này theo hướng kinh tế tri thức, phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, tạo giá trị gia tăng lớn. Từ đó, việc liên kết sẽ thúc đẩy sự năng động của các khu công nghiệp theo chiến lược tăng trưởng mới, như là địa bàn đột phá trong phát triển kinh tế; xây dựng quỹ, vườn ươm phát triển doanh nghiệp...

Còn đối với các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, cần có chính sách nhằm hướng việc thu hút đầu tư vào các ngành khai thác lợi thế so sánh, phù hợp với điều kiện tự nhiên và xã hội, bảo tồn sinh thái, có chính sách tích hợp tổng thể đặc thù cho vùng đảm bảo các chức năng trên thu bù từ các địa bàn kinh tế khác.

Cần làm rõ mối quan hệ giữa phát triển kinh tế vùng, liên kết vùng và quá trình phân cấp, để đề xuất hoàn thiện thể chế phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương, vừa đảm bảo tập trung thống nhất của nền kinh tế, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Cần nghien cứu về sự cần thiết thành lập quỹ phát triển vùng để triển khai đồng bộ các dự án mang tính liên tỉnh, liên vùng. Quỹ được hình thành từ các nguồn như: đóng góp từ ngân sách trung ương, đóng góp từ ngân sách của các địa phương, đóng góp của các doanh nghiệp trên địa bàn, nguồn vay, tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước…; áp dụng các cơ chế đầu tư có tính cạnh tranh quốc tế, thị trường.

PGS,TS. Trần Đình Thiên cho rằng, cần thành lập Hội đồng Tư vấn phát triển vùng để tăng cường khả năng phối hợp hoạt động các địa phương trong vùng. Hội đồng cần có vị thế độc lập với các địa phương, có mối liên hệ trực tiếp với Trung ương.

Còn TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) thì lại cho rằng, thực tế, việc liên kết vùng ở Việt Nam vẫn đang diễn ra, nhưng hiện nay vẫn dưới dạng “tự nguyện”, tự phát là chủ yếu, nay thích thì liên kết với tỉnh này thì liên kết mai thì thôi, nếu không chỉ làm chiếu lệ.

Nhấn mạnh yếu tố khung pháp lý, Viện trưởng Cung cho rằng, cần có các Nghị định về kinh tế vùng, trước hết có thể là các nghị định cho các vùng có tính liên kết tốt nhất hiện nay là Duyên hải miền Trung và Đồng bằng sông Cửu Long… trong đó, cơ quan vùng có một số chức năng về kinh tế, có thẩm quyền mạnh hơn.

Dưới góc độ cơ quan quốc tế, bà Victoria Kwakwa cho rằng: việc nghiên cứu phát triển liên kết vùng có tác dụng quan trọng. Ở Việt Nam có những vẫn đề vượt ra khỏi tầm giải quyết riêng lẻ ở địa phương, chỉ được giải quyết hiệu quả kịp thời ở không gian vùng. Các địa phương sẽ phối hợp chặt chẽ hơn theo nguyên tắc “win-win” để tối ưu hóa hiệu quả cũng như khả năng chống chịu với các rủi ro.

Việc riêng lẻ các tỉnh dẫn đến các hoạt động không hiệu quả hoạt động chính sách không chính xác, xác định rõ vai trò nhiệm vụ, tạo không gian hoạt động./.