Gợi mở giải pháp xây đội ngũ nhân lực chất lượng cao tại Việt Nam
Kinh tế, chính trị thế giới và khu vực trong và sau đại dịch Covid-19 có nhiều bất định vì nhiều yếu tố: Trật tự và hoạt động kinh tế thế giới thay đổi mạnh mẽ; Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, diễn ra trên nhiều lĩnh vực; Giá trị của chủ nghĩa tự do kinh tế, mở cửa và xuyên quốc gia theo toàn cầu hoá cũng như tương tác xã hội xuyên khu vực đang phải đối mặt với thách thức và hạn chế nghiêm trọng; Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, phân biệt chủng tộc và bài ngoại, ngăn chặn lẫn nhau dẫn đến mối quan hệ giữa các chính phủ đang có những điều chỉnh… Trong bối cảnh đó các quốc gia phải chủ động trong việc nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế. Điều này đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước khi nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn; nguyên, nhiên vật liệu sản xuất phụ thuộc rất nhiều từ bên ngoài.
Trong các năng lực nội tại của nền kinh tế thì đội ngũ nhân lực chất lượng cao chính là năng lực nội tại quan trọng nhất |
Trong các năng lực nội tại của nền kinh tế, đội ngũ nhân lực chất lượng là năng lực nội tại quan trọng nhất. Tại bất cứ thời điểm nào, trong bất kỳ lĩnh vực nào sự thành-bại đều do yếu tố con người quyết định. Kinh nghiệm của Mỹ - cường quốc kinh tế số một thế giới cho thấy bên cạnh chiến lược đúng đắn, chính sách kinh tế linh hoạt, cụ thể và phù hợp, để có thể phát triển mạnh mẽ và bền vững, Mỹ đã và đang duy trì một đội ngũ nhân lực thực sự có chất lượng và trí tuệ.
Những điểm sáng của đội ngũ nhân lực Việt Nam
Việt Nam đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, tỷ lệ dân số từ 15-64 tuổi chiếm 67,8%, lực lượng lao động dồi dào với trên 3/4 dân số từ 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động. Lực lượng lao động thành thị có tốc độ tăng nhanh hơn khu vực nông thôn. Tỷ lệ lao động có việc làm năm 2020 chiếm 97,7%, mức khá cao so với các nước phát triển. Mức độ phát triển con người ngày càng cải thiện, chỉ số Phát triển con người của Việt Nam tăng từ 0,683 năm 2015 lên 0,702 năm 2020.
Cơ cấu lao động theo khu vực kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Năm 2015 tỷ trọng lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 43,56% trong tổng số lao động có việc làm, đến năm 2020 tỷ lệ này đã giảm xuống còn 33,06%.
Đội ngũ nhân lực nghiên cứu khoa học đã có bước phát triển đáng kể về số lượng, chiếm khoảng 0,3% trong tổng số lao động đang làm việc của nền kinh tế, đóng góp thiết thực cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, một số lĩnh vực có thứ hạng cao trong khu vực ASEAN. Khoa học kỹ thuật và công nghệ đã dần thâm nhập vào hoạt động sản xuất, giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ.
Đội ngũ nhân lực giáo dục đào tạo cơ bản đủ về số lượng, đạt chuẩn và trên chuẩn đào tạo, nghề nghiệp ở nhiều mức độ. Ngành giáo dục và đào tạo đã triển khai nhiều chương trình đào tạo chất lượng cao, góp phần tích cực trong quá trình hội nhập quốc tế của đất nước.
Mạng lưới cơ sở Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) được sắp xếp tinh gọn, đảm bảo tính bao phủ toàn quốc, đa dạng về loại hình, trình độ đào tạo và mô hình hoạt động. Số lượng và kỹ năng nghề, nghiệp vụ sư phạm của hệ thống giáo viên và cán bộ quản lý GDNN được tăng lên và nâng cao. Quá trình xã hội hóa GDNN có nhiều chuyển biến tích cực, tăng tính chủ động, linh hoạt cho hoạt động của hệ thống GDNN. Hợp tác quốc tế lĩnh vực GDNN được đẩy mạnh cả về quy mô, hiệu quả, hình thức và đa dạng hóa về nội dung.
Đội ngũ nhân lực công nghệ thông tin có sự phát triển cả về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin hiện nay. Nước ta là một trong 20 quốc gia sử dụng Internet cao nhất thế giới, với tỷ lệ người sử dụng khoảng 70%. Tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh tại Việt Nam chiếm trên 45% dân số, xếp thứ 15 trong các quốc gia có lượng người dùng điện thoại thông minh lớn nhất thế giới. Ứng dụng trí tuệ nhân tạo và robot có những tiến bộ đáng kể. Vừa qua, Học viện Kỹ thuật quân sự đã nghiên cứu và đưa vào sử dụng thành công robot mang tên Vibot 2 trong lĩnh vực y tế. Tập đoàn Công nghệ FPT đang đưa vào thử nghiệm xe không người lái sử dụng trí tuệ nhân tạo.
Hiện nay nước ta có khoảng 4,5 triệu người đang sống, lao động và học tập ở nước ngoài, khoảng 3-3,5 triệu người trong độ tuổi lao động. Trong đó, số người có trình độ cao chiếm khoảng 10-15% dân số cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài, tương đương với 450-600 nghìn người. Khoảng 25% người Việt tại Mỹ có trình độ đại học hoặc trên đại học; trí thức người Việt tại Pháp có khoảng 40 nghìn người; tại Úc và Canada mỗi nước có trên 30 nghìn người; tại Nga và Đông Âu có khoảng 10 nghìn; tại Nhật, có tới 80 nghìn du học sinh người Việt Nam, tăng 15 lần trong chín năm qua, trong đó số nghiên cứu sinh bậc tiến sĩ ước tính lên tới 3 nghìn người, và có ít nhất 1 nghìn người đã lấy bằng tiến sĩ và đang nghiên cứu trình độ sau tiến sĩ.
Một số hạn chế, bất cập của nhân lực Việt Nam
Việt Nam rất cần một chiến lược bài bản, chuyên nghiệp, cụ thể và đột phá để xây dựng hệ sinh thái vững mạnh nhằm tạo dựng đội ngũ nhân lực - năng lực nội tại quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của đất nước, đặc biệt xây dựng hệ sinh thái cho đào tạo, thu hút và sử dụng nhân tài. |
Lực lượng lao động dồi dào nhưng chất lượng lao động thấp. Năm 2020 tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có chứng chỉ ở mức 23,6%; trên 60% việc làm thuộc khu vực nông nghiệp và phi chính thức với năng xuất lao động thấp; kỷ luật lao động của người Việt Nam nhìn chung kém, thiếu các kỹ năng mềm, thiếu khả năng hợp tác và gánh chịu rủi do, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm.
Mặc dù cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng so với các nước trong khu vực, chuyển dịch cơ cấu lao động của nước ta còn khá chậm. Lao động trong ngành dịch vụ có tính “huyết mạch” của nền kinh tế như tài chính, ngân hàng chiếm tỷ trọng rất thấp, ở mức 0,8% năm 2020.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ còn hạn chế, thiếu các nhà khoa học giỏi, đầu ngành, chuyên gia trong các lĩnh vực công nghệ cao. Nhân lực khoa học và công nghệ phân bố không đều, một bộ phận sử dụng nhiều thời gian cho công tác quản lý; tinh thần hợp tác nghiên cứu và kỹ năng làm việc nhóm còn yếu, khó hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh và các nhóm nghiên cứu liên ngành hoạt động lâu dài, bền vững. Đặc biệt chính sách thu hút, đãi ngộ chưa tạo thành động lực để phát huy hiệu quả năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức khoa học có trình độ cao, tài năng trẻ. Chưa có chính sách thoả đáng để thu hút và sử dụng các trí thức tài năng là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ tại Việt Nam.
Năng lực nghề nghiệp của một bộ phận giáo viên còn yếu, chậm đổi mới phương pháp giảng dạy, chưa đáp ứng yêu cầu dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh. Năng lực quản lý và quản trị nhà trường của một bộ phận cán bộ quản lý còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
Chất lượng của hệ thống giáo dục và đào tạo đáng để cho các nhà quản lý và hoạt động trong lĩnh vực này nghiêm túc suy nghĩ. Năm 2020, Ngân hàng Thế giới xếp hạng 1.000 trường đại học theo ba bảng xếp hạng uy tín Webometrics, QS và THE, Việt Nam đứng cuối cùng, sau cả Philippines, Indonesia, Malaysia và Thái Lan. Tại mỗi bảng QS và THE, Việt Nam chỉ có hai trường góp mặt trong TOP 1.000 và không có trường nào được xếp hạng theo bảng Webbometrics. Trong khi đó Indonesia có 9, 3 và 2; Thái Lan có 8, 5 và 6; Trung Quốc đứng đầu bảng xếp hạng khi có đến 40 đại diện ở TOP 1.000 xếp theo QS, 63 đại diện xếp theo THE và 103 đại diện theo Webometrics.
Đặc biệt hoạt động nghiên cứu trong các đại học Việt Nam tụt hậu. Giai đoạn 2010-2017, tỷ lệ nghiên cứu trên một triệu dân của Việt Nam tăng từ 23 lên 63, thấp hơn mức 71 của Indonesia, 212 của Thái Lan và còn kém xa mức 4.813 của Thuỵ Sĩ, quốc gia đứng đầu danh sách. Trong 10 năm 2008-2018, Việt Nam tăng từ vị trí 64 lên 45 về chỉ số đổi mới toàn cầu nhưng vẫn đứng chót về hầu hết chỉ số khác".
Công tác quản lý nhà nước về GDNN còn bộc lộ khá nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước. Mạng lưới cơ sở GDNN chưa hợp lý giữa các vùng miền, ngành nghề, trình độ đào tạo; chất lượng, hiệu quả GDNN chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chưa tạo được cơ chế gắn bó chặt chẽ với doanh nghiệp và đơn vị sử dụng lao động. Mất cân đối về số lượng người học ở các trình độ cao đẳng, trung cấp và sơ cấp; Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực đầu ra của GDNN chưa đáp ứng được yêu cầu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính chưa đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế; trách nhiệm công vụ còn kém, lề lối làm việc còn trì trệ, chậm đổi mới. Một bộ phận cán bộ, công chức quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, coi việc thực thi công vụ, phục vụ nhân dân như là ban phát ân huệ.
Kinh nghiệm đào tạo và thu hút nhân tài của một số quốc gia
Chính phủ Mỹ dù áp dụng các chính sách kinh tế khác nhau qua các thời kỳ tổng thống, nhưng luôn xác định “Nhân lực là trung tâm của mọi sự phát triển”. Từ đó, họ tập trung thực thi với mức độ ưu tiên chiến lược đào tạo và thu hút nhân tài từ khắp các châu lục. |
Cách mạng công nghệ 4.0 đang làm thế giới thay đổi mạnh mẽ, nhanh chóng, nhiều ngành công nghiệp sử dụng công nghệ mới sẽ xuất hiện và gia tăng về số lượng tạo nên cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các quốc gia để giành giật những tài năng tốt nhất ở bất cứ nơi nào họ tìm thấy. Lãnh đạo của các quốc gia và Tổng giám đốc điều hành (CEO) của các tập đoàn nhận thức sâu sắc một thực tế rằng, lực lượng trí thức tài năng sẽ quyết định đến sự phát triển, vị thế của quốc gia trên trường quốc tế. Chính phủ các nước đã có chiến lược và chính sách thu hút tài năng với những ưu đãi dồi dào mang dấu ấn riêng về tiền lương, điều kiện làm việc, sự hỗ trợ bổ sung và các lợi ích khác.
Trong nhiều thập kỷ, Mỹ có nền kinh tế, quân sự phát triển hàng đầu thế giới. Vị thế lãnh đạo thế giới và vai trò trung tâm của Mỹ được tạo dựng, duy trì và đảm bảo bằng nền tảng khoa học công nghệ tiên tiến với đội ngũ nhân lực dồi dào về số lượng, ưu tú và vượt trội về chất lượng so với các quốc gia khác. Để có đội ngũ nhân lực vượt trội hàng đầu thế giới, Chính phủ Mỹ qua tất cả các nhiệm kỳ tổng thống mặc dù áp dụng các chính sách kinh tế khác nhau nhưng luôn xác định “Nhân lực là trung tâm của mọi sự phát triển”, Chính phủ tập trung thực thi với mức độ ưu tiên chiến lược đào tạo và thu hút nhân tài từ khắp các châu lục và coi đó là chiến lược sống còn xuyên suốt lịch sử phát triển của đất nước. Mỹ đặc biệt coi trọng giáo dục đại học trong đào tạo và bồi dưỡng phát triển nhân tài và thực hiện có hệ thống, được luật hoá.
Hiện nay Mỹ đang sửa đổi Luật nhập cư cho phép mở rộng cánh cửa chào đón các giáo sư, các nhà nghiên cứu, vận động viên thể thao xuất sắc nước ngoài đủ điều kiện được cấp thị thực định cư làm việc lâu dài ở Mỹ. Tim Cook-CEO của Apple bày tỏ vấn đề lớn nhất trong thời đại của Mỹ hiện nay là chính sách cho người nhập cư bởi vì một trong số họ là những người tài năng làm nên giá trị và ảnh hưởng lớn đến các giá trị Mỹ.
Để tạo dựng và phát triển đội ngũ nhân lực xuất sắc, hiệu quả hàng đầu thế giới, Chính phủ Mỹ luôn coi trọng chính sách trọng dụng nhân tài và đề cao tính chuyên nghiệp của nhân viên là yếu tố cơ bản nâng cao vị thế của Chính phủ. Các cơ quan tuyển dụng Liên bang luôn tìm mọi cách thu hút, giữ chân những sinh viên tài năng hàng đầu từ các trường đại học và đảm bảo điều kiện tốt nhất cho lực lượng lao động Liên bang giải quyết mọi thách thức và những nhiệm vụ cấp bách ở thời điểm hiện tại và trong tương lai. Vì vậy Chính phủ Mỹ đã công khai, minh bạch và đổi mới quy trình tuyển dụng, tăng cường thông tin phản hồi cho ứng viên về tình trạng hồ sơ; khuyến khích các nhà quản lý tham gia vào quá trình tuyển dụng, đảm bảo mức độ chi tiết của thông báo tuyển dụng. Mỹ cũng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào tuyển dụng với việc đăng tải các cơ hội việc làm tại các cơ quan nhà nước nhằm tạo điều kiện toàn diện cho ứng viên từ khâu nộp hồ sơ và hoàn thành bài thi đầu vào trên mạng.
Chính phủ Mỹ thành lập hệ thống gồm các cơ quan quản lý nhân lực nhằm tuyển dụng, giữ chân và tôn vinh lực lượng lao động đẳng cấp thế giới để phục vụ nhân dân Mỹ. Các nhà quản lý nhân sự Mỹ nhận thức: “Muốn quản lý được nhân tài, trước hết nhà quản lý phải là một người tài, có những suy nghĩ vượt tầm so với thông thường”.
Để giữ chân người tài, Chính phủ Mỹ tạo mọi điều kiện để ai muốn thăng tiến đều có cơ hội và cơ hội của mọi người như nhau. Chính phủ có chính sách lợi ích dành cho nhân viên chính phủ cao hơn 48% so với khu vực tư nhân. Nhân viên chính phủ nhận được nhiều quyền lợi như ngày nghỉ nhiều hơn nhưng vẫn được trả lương, bảo hiểm y tế và các chương trình trợ cấp phúc lợi khác. Lợi ích cho những người có cùng trình độ trong khu vực chính phủ cao hơn khá nhiều so với khu vực tư nhân. Chẳng hạn nhân viên có trình độ cử nhân và công nhân bậc cao của khu vực chính phủ nhận lợi ích cao hơn đến 50% so với những lao động tương tự trong khu vực tư nhân. Về tổng thể, tổng thù lao cho nhân viên chính phủ cao hơn trên 20% so với cùng cấp bậc trong khu vực tư nhân.
Chính phủ Mỹ luôn đảm bảo sự ổn định và chính sách mềm dẻo trong quản lý. Tại phần lớn các vị trí, nhân viên dễ dàng duy trì sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống lành mạnh. Chính phủ cho phép nhân viên làm việc tại nhà hoặc từ xa và ngày càng phổ biến trong các cơ quan chính phủ. Đối với công việc đòi hỏi nhân viên phải tiến hành phần lớn thời gian ở ngoài phạm vi công sở, Chính phủ cung cấp thiết bị tạo điều kiện cho nhân viên làm việc di động.
Trung Quốc có chính sách đào tạo và thu hút nhân tài khiến thế giới phải nể phục. Trong 60 năm qua, Trung Quốc từ một quốc gia nghèo đói trở thành cường quốc mà bất kỳ quốc gia nào cũng phải dè chừng, quy mô nền kinh tế đứng thứ hai thế giới. Đạt được kết quả thần kỳ này nhờ Trung Quốc thực hiện rất nhiều chính sách kinh tế, xã hội trọng điểm và một trong những chính sách trọng điểm được đề ra ngay từ đầu đó là đào tạo và thu hút nhân tài. Trung Quốc luôn quan tâm đến chất lượng hơn là số lượng, thi vào đại học ở Trung Quốc được đánh giá là khốc liệt nhất thế giới.
Trung Quốc tích cực gửi sinh viên đi học ở các nước tiên tiến, chủ yếu là Mỹ, đồng thời có chính sách hấp dẫn để họ trở về nước. Ngay từ giai đoạn đầu của quá trình cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã chú trọng việc gửi sinh viên ra nước ngoài học tập. Sau đó đưa ra kế hoạch Hải ngoại quy hương (Hải quy), thúc đẩy sinh viên du học về nước phục vụ. Giai đoạn 1978-2018 số sinh viên Trung Quốc ra nước ngoài du học lên tới gần 5,9 triệu, trong đó số người đã về nước gần 3,7 triệu, đạt 62,7%, một con số rất lớn. Năm 2016 có 544,5 nghìn sinh viên du học nước ngoài, có 432 nghìn về nước, đạt 77,9%; năm 2018 có 662 nghìn sinh viên đi du học, có 519,4 nghìn về nước, đạt 78,4%. Số sinh viên Trung Quốc du học trở về rất đông cho thấy mức độ thành công của chiến lược đào tạo nhân tài ở nước ngoài.
Bên cạnh chiến lược thu hút nhân tài người Hoa ở nước ngoài, Trung Quốc cũng triển khai chiến lược thu hút nhân tài của thế giới đến Trung Quốc để nghiên cứu khoa học. Cuối năm 2008, Trung Quốc đưa ra Kế hoạch 1.000 nhân tài, nhằm thu hút các nhà khoa học, nhà kinh tế, chiến lược gia hàng đầu thế giới đã có thành tích nghiên cứu tại các nước Âu - Mỹ và Nhật với chế độ đãi ngộ tuyệt vời. Kế hoạch này ban đầu nhằm vào người Hoa ở nước ngoài, sau đó bao gồm cả người các nước khác. Trung Quốc đưa ra các tiêu chuẩn đãi ngộ hấp dẫn hơn tiêu chuẩn tại các nước tiên tiến. Số lượng giáo sư quay về giai đoạn 2008- 2016 tăng gấp 20 lần so với trước. Theo Báo Asahi ngày 31/10/2020, gần đây mỗi năm có khoảng 10 nhà khoa học trẻ Nhật Bản sang làm việc tại các đại học và viện nghiên cứu của Trung Quốc, đáp ứng chính sách chiêu hiền đãi sĩ của nước này.
Singapore được đánh giá là quốc gia có chính sách thu hút nhân tài nước ngoài bài bản, rõ ràng nhất thế giới. Chính phủ Singapore xác định nhân tài là yếu tố then chốt quyết định khả năng cạnh tranh và phát triển của đất nước. Chính phủ đã tạo dựng niềm tin người tài luôn có vị trí cao với mức lương tương xứng với giá trị chất xám, đồng thời chính phủ sẵn sàng chào đón nhân tài ngoại vào bộ máy nhà nước. Cố Thủ tướng Lý Quang Diệu có quan điểm rất rõ ràng: “Lãnh đạo giỏi là đầu tầu định hướng cho đất nước phát triển, lãnh đạo dốt sẽ ngáng chân những người giỏi, không cho họ ngồi vào những vị trí quan trọng".
Gần đây với cách mạng công nghệ phát triển nhanh và mạnh, chính phủ Singapore đã thực thi chiến lược Hộ chiếu Công nghệ, nhằm thu hút các chuyên gia công nghệ hàng đầu thế giới đến làm việc tại quốc gia này. Theo kế hoạch, Singapore sẽ dành 500 cuốn hộ chiếu có giá trị trong 2 năm với lần cấp đầu tiên và có thể gia hạn sau đó. Hộ chiếu này cho phép những nhân tài công nghệ trên thế giới cống hiến cho nền kinh tế Singapore dưới nhiều hình thức khác nhau từ trực tiếp làm việc đến sáng lập công ty, làm cố vấn, hoặc nghiên cứu, giảng dạy tại các trường đại học.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực và thu hút nhân tài cho Việt Nam
Hy vọng trong một, hai thập kỷ tới, Việt Nam thực sự có đội ngũ nhân lực có tính chuyên nghiệp, năng lực, trình độ và kỹ năng cao, có đội ngũ nhân tài hùng hậu, trí tuệ để xây dựng một nước Việt Nam hùng cường. |
Tại Việt Nam, từ năm 1442, Triều đình nhà Lê đã đưa ra quan điểm: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương anh minh luôn coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết.
Kế thừa tư tưởng của các bậc tiền nhân anh minh, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ nhân lực, đặc biệt việc đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài phù hợp thực tiễn phát triển đất nước trong từng giai đoạn. Vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách liên quan đến đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài. Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 của Hội nghị Trung ương lần thứ ba, khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra nhiệm vụ: “Chú trọng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, tạo nguồn cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở; cán bộ khoa học đầu ngành; cán bộ quản lý kinh doanh các doanh nghiệp lớn”.
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ đã yêu cầu: “Quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các ngành, lĩnh vực mũi nhọn phục vụ cho phát triển nhanh, bền vững. Xây dựng Chiến lược quốc gia về thu hút và trọng dụng nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài”.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã sửa đổi, ban hành và tổ chức thực hiện luật, các chính sách phát hiện, đào tạo, thu hút và trọng dụng nhân tài. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Nhà nước có chính sách để phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng. Ưu tiên tuyển chọn người có tài năng”. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019 quy định: “Nhà nước có chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng. Chính phủ quy định khung chính sách trọng dụng và đãi ngộ đối với người có tài năng trong hoạt động công vụ”.
Ngày 5/12/2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 140/2017/NĐ-CP về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ. Hiện nay, Chính phủ đang khẩn trương xây dựng Chiến lược quốc gia thu hút, trọng dụng nhân tài.
Như vậy, có thể thấy chủ trương, luật và các chính sách về phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và trọng dụng nhân tài đã khá đầy đủ, phản ánh rõ nét nhận thức của Đảng và Nhà nước về vai trò, tầm quan trọng của nhân tài và sự cần thiết phải thu hút, trọng dụng nhân tài trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để các chủ trương, luật, chính sách về phát triển đội ngũ nhân lực có năng lực chuyên môn tốt, về phát hiện, đào tạo, thu hút, trọng dụng và sử dụng nhân tài, Chính phủ cần đẩy mạnh thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, Chính phủ khẩn trương hoàn thiện thể chế về phát triển, quản lý, sử dụng hiệu quả đội ngũ nhân lực của đất nước. Cụ thể hoá luật pháp, cơ chế, chính sách về giáo dục, đào tạo; GDNN; lao động tiền lương; thị trường lao động; tuyển dụng công chức.
Thứ hai, Chính phủ nghiên cứu thành lập Uỷ ban Quốc gia về cải cách và đổi mới giáo dục, đào tạo, GDNN nhằm thực hiện thành công chủ trương giáo dục là quốc sách hàng đầu của đất nước, đồng thời đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng chuẩn hoá, hiện đại và hội nhập quốc tế. Đổi mới và phát triển giáo dục, đào tạo, GDNN phải đi đôi và gắn kết chặt chẽ với phát triển khoa học và công nghệ, với nhu cầu của thị trường lao động.
Thứ ba, đổi mới công tác quản lý, sử dụng đánh giá và đào tạo lại đội ngũ nhân lực. Đặc biệt đổi mới căn bản và toàn diện chính sách tuyển dụng, đánh giá, sử dụng và đề bạt đội ngũ nhân lực trong bộ máy nhà nước.
Thứ tư, Bộ Lao động, thương binh và xã hội chủ trì nghiên cứu đổi mới chế độ tiền lương theo nguyên tắc thị trường; xây dựng và thực hiện chế độ đãi ngộ tương xứng với kết quả công việc, trình độ và năng lực của người lao động.
Thứ năm, nghiên cứu và học tập kinh nghiệm quốc tế trong phát hiện, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng và sử dụng hiệu quả nhân tài. Trước mắt có chính sách và giải pháp đặc thù, hiệu quả để giữ chân nhân tài trong nước và thu hút nhân tài là người Việt Nam ở nước ngoài yên tâm trở về làm việc trong “môi trường chuyên môn trong lành” để họ chuyên tâm phát huy tài năng, trí tuệ.
Thứ sáu, nhân rộng chính sách và kinh nghiệm thu hút nhân tài người Việt Nam ở nước ngoài của các tập đoàn kinh tế như trường hợp của Vingroup. Đặc biệt các tập đoàn kinh tế Nhà nước có tiềm lực tài chính cần tích cực thực hiện chủ trương thu hút nhân tài hàng đầu thế giới. Chính phủ cần lập danh sách các chuyên gia, nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài và công bố rộng rãi đến các cơ quan, doanh nghiệp trong nước để thu hút, mời hợp tác trong các lĩnh vực phù hợp.
Thành công trong việc đào tạo, thu hút và sử dụng nhân tài của Mỹ; kinh nghiệm trong ngăn chặn chảy máu chất xám, thu hút nhân tài của Trung Quốc; chiến lược thu hút nhân tài bài bản và chuyên nghiệp của Singapore là những mô hình tốt, những bài học kinh nghiệm hay và quý cho Việt Nam cũng như các nước đang phát triển.
Việt Nam rất cần một chiến lược bài bản, chuyên nghiệp, cụ thể và đột phá để xây dựng hệ sinh thái vững mạnh nhằm tạo dựng đội ngũ nhân lực - năng lực nội tại quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của đất nước, đặc biệt xây dựng hệ sinh thái cho đào tạo, thu hút và sử dụng nhân tài. Chúng ta hy vọng trong một, hai thập kỷ tới, Việt Nam thực sự có đội ngũ nhân lực có tính chuyên nghiệp, năng lực, trình độ và kỹ năng cao, có đội ngũ nhân tài hùng hậu, trí tuệ để xây dựng một nước Việt Nam hùng cường phồn vinh, có vị thế cao trên trường quốc tế./.
Bình luận