Hội thảo diễn ra trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2019, sáng ngày 2/5.

Ông Vũ Đại Thắng - Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư phát biểu khai mạc

Vẫn còn nhiều tranh cãi về khái niệm "kinh tế số" ở Việt Nam

Trong 10 năm qua, kinh tế số Việt Nam đã phát triển không ngừng về cả nền tảng hạ tầng lẫn thị trường kinh doanh. Kinh tế số phát triển cùng với các hiện tượng mới nổi như công nghệ blockchain, nền tảng số, phương tiện truyền thông xã hội, doanh nghiệp điện tử, thương mại điện tử, nông nghiệp chính xác; các doanh nghiệp liên quan đến phát triển phần mềm, ứng dụng, phát triển nội dung số và truyền thông, các dịch vụ và đào tạo liên quan, cùng với các doanh nghiệp tham gia vào sản xuất và phát triển thiết bị công nghệ thông tin - truyền thông.

Phát biểu khai mạc, ông Vũ Đại Thắng - Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư dẫn nghiên cứu của Google và Temasek (Singapore) cho biết, kinh tế số của Việt Nam đạt 3 tỷ USD năm 2015, tăng lên 9 tỷ USD năm 2018 và dự báo đạt 30 tỷ USD vào năm 2025. Trong khi đó một nghiên cứu khác của Tổ chức Data 61 (Australia), GDP Việt Nam có thể tăng thêm khoảng 162 tỷ USD trong 20 năm nếu Việt Nam chuyển đổi số thành công.

Tuy nhiên, những con số "hấp dẫn" ấy không thể phủ nhận thực tế mà chính ông Thắng và người điều phối chương trình - Nguyễn Trung Chính phải thừa nhận là, khái niệm "kinh tế số" ở Việt Nam vẫn còn nhiều tranh cãi và cần được xác định lại.

Thứ trưởng Thắng cho biết, khái niệm kinh tế số nhìn một cách cơ bản theo ông là toàn bộ hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số.

Thứ trưởng cho biết, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ xây dựng những chiến lược về kinh tế số và CMCN 4.0 dựa trên khái niệm này.

Ông Bùi Thế Duy - Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ cũng cho rằng, cần hiểu cặn kẽ về khái niệm kinh tế số, tránh nhầm lẫn. Ông Duy nhấn mạnh, kinh tế số là một phần của nền kinh tế trong đó gồm các mô hình kinh doanh tạo ra sản phẩm, dịch vụ số hoặc hỗ trợ cung cấp dịch vụ số cho doanh nghiệp. 20 năm qua các bộ, ngành đã chuẩn bị cơ chế, chính sách trong xây dựng hạ tầng về phát triển công nghệ số.

Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất hiện nay trong phát triển kinh tế số, theo Thứ trưởng Duy là sự hội tụ loạt công nghệ mới (điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo...) trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0. Công nghệ mới cho phép doanh nghiệp xử lý khối lượng công việc lớn, đưa ra quyết định thông minh hơn. Điều này cũng đồng nghĩa, phân tích dữ liệu lớn tạo ra cấp độ mới trong phát triển kinh tế số.

Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, ông Nguyễn Thành Hưng lại cho rằng, phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới. Sử dụng kinh tế số sẽ góp phần tăng năng suất lao động.

Trong nền kinh tế số, các doanh nghiệp sẽ đổi mới quy trình sản xuất, kinh doanh sang mô hình theo hệ sinh thái, liên kết từ khâu sản xuất, thương mại đến sử dụng...

Nhiều rào cản ngăn sự phát triển của kinh tế số

Trả lời câu hỏi "Thách thức của Việt Nam trong sự phát triển kinh tế số là gì?", ông Bùi Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn FPT cho rằng thách thức lớn nhất và cũng là một trong những điểm yếu nhất của Việt Nam là khoảng cách giữa hoạch định chính sách và việc đi vào triển khai.

"Chẳng cứ kinh tế số, mà ở nhiều lĩnh vực khác của Việt Nam, việc nói và làm không đi cùng nhau", ông Ngọc nói và cho rằng Chính phủ đã có những chương trình, những giải pháp phát triển kinh tế số từ hai thập kỷ trước nhưng thực tế, những chuyển biến không tương đồng với kỳ vọng ban đầu. Những chương trình hoành tráng nhưng đi đến triển khai thực tế, lại không mang lại nhiều hiệu quả.

Lấy ví dụ về sự phát triển của kinh tế số tại khu vực công, Phó chủ tịch FPT cho rằng đây là một lĩnh vực quan trọng để tạo cầu cho sự phát triển kinh tế số. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, các chương trình xây dựng kinh tế số như Chính phủ điện tử, Y tế thông minh, Giao thông thông minh... lại được triển khai "rất nửa vời".

"Khoảng cách giữa hoạch định và triển khai là thách thức của Việt Nam, đó là khoảng trống rất lớn", Phó Chủ tịch FPT thẳng thắn.

Bên cạnh công tác triển khai, việc xây dựng hành lang pháp lý, theo ông Ngọc, cũng là vấn đề cần khắc phục. Kinh tế số tạo ra những lĩnh vực kinh doanh mới, việc pháp lý hóa những lĩnh vực mới cần được thực hiện đồng bộ, liên quan đến mục tiêu quốc gia về kinh tế số. Việc chuẩn hóa là sự bắt buộc.

Đồng tình với ông Ngọc, ông Phạm Tiến Dũng, Vụ trưởng Thanh toán (Ngân hàng Nhà nước) đánh giá hành lang pháp lý đang đi chậm hơn so với công nghệ từ 3-5 năm.

Vì thế, ông Dũng cho rằng, nếu không có những cơ chế thí điểm quản lý thì việc theo kịp với sự phát triển của công nghệ là điều rất khó.

Một điểm yếu khác cũng được “chỉ mặt, điểm tên” đó là thiếu dữ liệu và thiếu sự kết nối trong hệ thống dữ liệu của các bộ, ngành.

Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Thành Hưng nhấn mạnh, trong kinh tế số, dữ liệu ví là nhiên liệu của nền kinh tế. Nhưng, Việt Nam đang ở giai đoạn ban đầu, các kết nối dữ liệu giữa các bộ, ngành chưa liên thông.

"Khi chưa liên thông, kết nối thì khó nói chuyện xa xôi, cạnh tranh với thế giới", ông Hưng lưu ý.

Thứ trưởng Vũ Đại Thắng cũng chia sẻ rằng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang sở hữu nhiều hệ thống dữ liệu khác nhau về đăng ký doanh nghiệp, đấu thầu, doanh nghiệp nước ngoài... Nhưng, các hệ thống dữ liệu này chưa kết nối, liên thông với nhau.

Ở góc độ quốc gia, ông Thắng nói, hiện mỗi bộ có hệ thống thông tin khác nhau, không liên thông với các bộ ngành mà chỉ chia sẻ một phần thông tin liên quan. "Cần hướng tới tích hợp các cơ sở dữ liệu quốc gia, để dùng chung", Thứ trưởng Thắng nhấn mạnh.

Chính phủ có thể dẫn dắt, làm gương trong phát triển kinh tế số

Để phát triển kinh tế số ở Việt Nam, Thứ trưởng Vũ Đại Thắng nhấn mạnh tới 4 chính sách, gồm:

Một là, xây dựng nền tảng thể chế cho các mô hình kinh doanh kinh tế số, trong đó sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật cho các ngành đang có nhiều mô hình kinh doanh mới như thương mại điện tử, tài chính số, ngân hàng số... Cải cách thể chế để thu hút đầu tư cho các công nghệ số trong các lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, đầu tư thiên thần theo hướng tạo thuận lợi tối đa cho các hoạt động góp vốn, mua cổ phần, mua bán sáp nhập doanh nghiệp công nghệ số.

Hai là, phát triển hạ tầng kết nối. Theo đó, Chính phủ khuyến khích doanh nghiệp nhanh chóng phát triển dịch vụ internet di động 5G, đầu tư mở rộng mạng lưới cáp quang tốc độ cao và tăng băng thông internet quốc tế. Xây dựng xa lộ internet cho các dịch vụ nhiều người dùng, ví dụ dịch vụ hành chính công, dịch vụ y tế, giáo dục và các dịch vụ khác.

Ba là, xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia và các cơ sở dữ liệu khác. Xây dựng chính sách, thể chế cho hoạt động thu thập, quản lý, kết nối, chia sẻ và thương mại hóa các cơ sở dữ liệu quốc gia trên cơ sở bảo đảm an toàn dữ liệu, bảo vệ dữ liệu cá nhân...

Cuối cùng, đào tạo nguồn nhân lực các chuyên ngành an ninh mạng, công nghệ thông tin, truyền thông, giải trí... để chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi sản xuất và việc làm.

Ở góc độ chuyên gia, TS. Brian Hull, Tổng giám đốc ABB Việt Nam lại cho rằng, Việt Nam cần thực hiện 4 giải pháp:

Thứ nhất, cần thúc đẩy kinh tế số ở mọi thành phần. Dẫn kinh nghiệm từ nước Anh, ông Brian Hull đề xuất, Việt Nam nên tổ chức những cuộc thi hàng năm để tìm ra những nhà sản xuất tốt nhất, công nghệ, nhân lực giỏi nhất.

“Đây là cách để mọi người hiểu rằng công nghệ số đang hiện diện, những kỹ sư trẻ có cơ hội tốt để nâng cao kinh nghiệm trong sản xuất”, ông lý giải.

Thứ hai, tìm ra giải pháp thúc đẩy việc áp dụng công nghệ ở cả bộ phận doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khi công nghệ mới xuất hiện, những doanh nghiệp này sẽ khó có đủ tiềm lực để tìm hiểu và triển khai.

“Vì thế, Chính phủ hay những doanh nghiệp lớn có thể xây dựng những cơ chế tư vấn, hỗ trợ để giúp các doanh nghiệp nhỏ tìm hiểu, đưa ra những lời khuyên miễn phí để công nghệ đi vào sản xuất”, ông gợi ý.

Thứ ba, đảm bảo an toàn an ninh mạng. Chỉ rõ rằng, nhiều nhà sản xuất toàn cầu đã phải dừng hoạt động vì những cuộc tấn công mạng, lãnh đạo ABB Việt Nam nhấn mạnh, song song với việc có hạ tầng thông minh, thì cần xây dựng những giải pháp đảm bảo an toàn an ninh hệ thống.

Bên cạnh đó, nhân lực cũng được ông Brian Hull nhắc đến như một tiền đề cho sự phát triển. "Những nhà máy thông minh cũng không thể tự vận hành, chúng ta cần những kỹ sư. Vậy nguồn lực này đến từ đâu? Tôi nghĩ việc phát triển nhân lực cũng là điều quan trọng. Nguồn nhân lực đảm bảo sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế số", Tổng giám đốc ABB Việt Nam phát biểu.

Thứ tư, sự đóng góp của Chính phủ trong sự phát triển của kinh tế số. Ông Brian Hull nhấn mạnh, Chính phủ có thể dẫn dắt, làm gương trong hoạt động này. Những sáng kiến, dự án lớn được đưa ra cần đảm bảo Chính phủ sử dụng những công nghệ, những hạ tầng hiện đại nhất./.