Tăng trưởng khiêm tốn

Sáng nay (ngày 21/10/2020), tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) đã tổ chức Tọa đàm "Công bố Báo cáo Kinh tế Vĩ mô Quý III và chín tháng đầu năm 2020".

Các vị chuyên gia thảo luận tại Tọa đàm/ Ảnh: VEPR

Trình bày Báo cáo, PGS, TS. Phạm Thế Anh, Kinh tế trưởng VEPR cho biết, tăng trưởng kinh tế Việt Nam Quý 3/2020 đạt mức 2,62%, trong chín tháng đầu năm đạt 2,12%. Tính chung chín tháng đầu năm, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,84%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,08%; khu vực dịch vụ tăng 1,37%.

Đánh giá về triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2020, đại diện VEPR cho rằng, điều này phụ thuộc vào khả năng khống chế bệnh dịch không chỉ trong nước mà còn trên thế giới.

Theo đó, những yếu tố có thể hỗ trợ cho tăng trưởng trong phần còn lại của năm đó là: kỳ vọng về triển vọng kinh tế do việc hoàn tất ký kết Hiệp định thương mại tự do và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và EU (EVFTA và IPA) đem lại; tiến độ giải ngân và thi công các dự án đầu tư công trọng điểm được đẩy nhanh như mong đợi; làn sóng dịch chuyển đầu tư nhằm phân tán rủi ro từ thương chiến Mỹ - Trung và tận dụng các ưu đãi đầu tư tại Việt Nam; môi trường vĩ mô ổn định, lạm phát kiểm soát được ở mức trung bình, tạo điều kiện tốt cho việc thực thi các chính sách hỗ trợ tăng trưởng.

Tuy vậy, “Việt Nam cũng đang gặp nhiều rủi ro và thách thức trong một môi trường kinh tế thế giới bất trắc”, vị chuyên gia này đánh giá.

Theo đó, sự tái bùng phát của COVID-19 tại nhiều nước đi kèm với các biện pháp phong tỏa có thể kéo dài thời gian đứt gãy của chuỗi cung ứng; xung đột địa chính trị giữa các nước lớn có thể khiến một nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam đối diện những rủi ro bất ngờ.

Bên cạnh đó, điểm yếu của kinh tế Việt Nam còn đến từ các rủi ro nội tại như: mất cân đối tài khóa lớn, tốc độ và mức độ đầu tư phát triển, đặc biệt là hạ tầng, bị chững lại; sức khỏe hệ thống ngân hàng – tài chính tuy dần được củng cố, nhưng còn dễ tổn thương; sự phụ thuộc nặng nề của tăng trưởng vào khu vực FDI, thiếu tự chủ công nghệ và nguyên liệu; chất lượng lao động thấp; hiệu quả đầu tư công thấp…

Hai kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020

Cân nhắc những yếu tố tích cực cũng như tiêu cực đang tác động đối với kinh tế Việt Nam hiện nay, VEPR đưa ra các dự báo về tăng trưởng theo các kịch bản khác nhau về tình hình phòng chống bệnh dịch.

Cụ thể: theo Kịch bản cơ sở (khả năng cao): Trong kịch bản này, bệnh dịch sẽ không tái bùng phát trong nước trong thời gian còn lại của năm và hoạt động kinh tế nội địa dần trở lại bình thường. Theo đó, mức độ tác động của COVID–19 lên các ngành nông lâm ngư nghiệp, sản xuất chế biến chế tạo và các ngành trong khu vực dịch vụ sẽ không nghiêm trọng hơn so với hiện tại. Tăng trưởng kinh tế cả năm được dự báo ở mức 2,6%-2,8%.

Kịch bản bất lợi (khả năng thấp): Ở kịch bản này, bệnh dịch trong nước vẫn được khống chế hoàn toàn trong thời gian còn lại của năm và hoạt động kinh tế dần trở lại bình thường. Tuy nhiên, bệnh dịch ở nhiều trung tâm kinh tế - tài chính quan trọng trên thế giới tái bùng phát mạnh, các nước phải tái áp dụng các biện pháp phong tỏa trong Quý 4 năm 2020. Theo đó, tăng trưởng kinh tế cả năm được dự báo ở mức 1,8%-2,0%.

VEPR cũng đánh giá kịch bản 2,6%-2,8% khả năng cao sẽ đạt được năm 2020. Trước đó, ở báo cáo gần nhất công bố vào tháng 7 vừa qua, VEPR dự báo tăng trưởng năm 2020 của Việt Nam đạt 3,8%.

“Mức dự báo hiện tại thấp hơn so với ước tính của chúng tôi trong báo cáo trước đây do việc dịch bệnh quay trở lại tại một số TP lớn ở miền Trung trong tháng 7 làm gián đoạn quá trình hồi phục của ngành du lịch. Trong trường hợp bất lợi hơn khi các nước đối tác của Việt Nam phải tái áp dụng các biện pháp phong tỏa, kinh tế Việt Nam có thể chỉ tăng trưởng trong khoảng 1,8%-2,0%”, PGS, TS. Phạm Thế Anh, Kinh tế trưởng VEPR đánh giá.

Việt Nam nên từng bước xây dựng đệm tài khóa để phòng chống những cú sốc kiểu COVID– 19

Cơ quan này cũng đưa ra khuyến nghị, các chính sách an sinh xã hội vẫn cần được ưu tiên hàng đầu và cần phải được tiếp tục triển khai nhanh chóng, đúng đối tượng, trước khi người dân rơi vào những bi kịch không đáng có.

Đặc biệt, việc thực thi chính sách cần quan tâm hơn đến lao động trong khu vực phi chính thức bởi nhóm này chiếm một tỷ trọng lớn, dễ tổn thương, chịu tác động nặng nề nhất và đang khó tiếp cận các chính sách hỗ trợ.

Trong khi đó, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cũng cần tiếp tục được thực hiện theo hướng khẩn trương, tập trung, đúng đối tượng và thực chất hơn, theo sát với nhu cầu của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy nhanh đầu tư công, đặc biệt là các dự án trọng điểm quốc gia, đã được phê duyệt và đã được bố trí vốn thực hiện trong các tháng còn lại của năm là việc nên làm để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Việc chia nhỏ ra làm nhiều gói thầu và thực hiện rải rác ở nhiều địa phương để tạo sự lan tỏa tốt hơn cũng có thể được cân nhắc.

Ngoài ra, trong mọi tình huống, lạm phát, lãi suất và tỷ giá cần được duy trì ổn định để chuẩn bị cho giai đoạn phục hồi sau bệnh dịch. Đa dạng hóa thị trường xuất/nhập khẩu cũng cần được chú trọng hơn nữa nhằm tránh phụ thuộc nặng nề vào một số đối tác kinh tế lớn.

Đặc biệt, dù có chậm trễ, Việt Nam nên từng bước xây dựng đệm tài khóa để phòng chống những cú sốc kiểu COVID– 19, hoặc những diễn biến bất ngờ của chính bệnh dịch này, trong những năm tới.

Bày tỏ sự đồng tình với đánh giá nhận định của nhóm nghiên cứu, đây là báo cáo toàn diện cả kinh tế và xã hội trong năm nay và trong trung hạn liên quan tới chính sách tài khoá, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV cũng nêu lên một số kiến nghị về chính sách. Theo đó, TS. Lực cho rằng, Việt Nam vẫn phải thực hiện mục tiêu “kép” trong năm nay và năm tới. Đồng thời, tiếp tục tìm kiếm một số động lực tăng trưởng mới hoặc thay thế cho động lực truyền thống đang gặp khó khăn như xuất khẩu, cùng chia sẻ khó khăn với các nước trên thế giới.

Ngoài ra, vị Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV cũng cho rằng, về các gói hỗ trợ, mặc dù đều được đưa ra rất sớm, tuy nhiên, quá trình thực hiện cần được thúc đẩy nhanh hơn nữa./.