PV: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận định: Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ thực sự là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng, là "mặt tiền" của quốc gia, là "khúc ruột", là "cửa ngõ" ra biển cả, "bệ đỡ" cho các tỉnh Tây Nguyên, kết nối hành lang kinh tế Đông - Tây. Tuy nhiên, Vùng có nhiều chỉ số phát triển thấp hơn mức trung bình của cả nước. Tiềm năng, lợi thế của Vùng, nhất là lợi thế về kinh tế biển chưa được khai thác hợp lý. Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW​​​​ sẽ khắc phục những hạn chế này như thế nào, thưa Thứ trưởng?

Thứ trưởng Trần Duy Đông: Quá trình nghiên cứu, xây dựng Nghị quyết số 26-NQ/TW, Bộ Chính trị đã chỉ ra những thành tựu và các tồn tại, hạn chế, trong đó nhiều chỉ số phát triển của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đạt thấp hơn mức trung bình của cả nước. Tiềm năng, lợi thế của Vùng, nhất là lợi thế về kinh tế biển chưa được khai thác hợp lý. Các nguyên nhân đã được xác định cụ thể là do: Nhận thức chưa đầy đủ về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của Vùng; tư duy về liên kết vùng chậm được đổi mới; chưa có chính sách đủ mạnh để tạo đột phá cần thiết cho Vùng và một số địa phương trọng điểm; nguồn lực đầu tư cho Vùng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là đầu xây dựng tư hạ tầng giao thông; phối hợp giữa các bộ, ngành Trung ương với các địa phương chưa chặt chẽ.

Để khắc phục những hạn chế, yếu kém này, Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW đã định hướng giải pháp rõ ràng, nhiệm vụ cụ thể; gắn với một số chủ trương lớn về xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù sẽ là cơ sở và cơ hội cho vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ phát triển trong giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2045. Đó là: Quán triệt, tuyên truyền, tạo sự đồng thuận trong nhận thức, xây dựng, tổ chức thực hiện các Chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị; hoàn thiện thể chế, chính sách và đẩy mạnh phát triển liên kết Vùng; chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vùng, thúc đẩy phát triển kinh tế biển; phát triển mạnh hệ thống đô thị, nhất là hệ thống đô thị ven biển; đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội Vùng, nhất là hạ tầng giao thông; quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên biển, đảo và rừng; bảo vệ môi trường, nhất là môi trường biển; nâng cao khả năng ứng phó với thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển toàn diện văn hoá - xã hội Vùng; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trong Vùng...

Chương trình hành động của Chính phủ đã đề ra 34 nhiệm vụ cụ thể, 11 dự án đầu tư hạ tầng giao thông kết nối và phân công cho các bộ, ngành triển khai thực hiện, có lộ trình thời gian cụ thể.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư tin rằng, Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW sẽ tạo đồng thuận, thống nhất cao trong nhận thức và hành động của các bộ, ngành Trung ương, các địa phương; phát huy được vị trí, vai trò, tiềm năng, lợi thế của Vùng và các địa phương trong Vùng nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết đã đề ra.

Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ là vùng phát triển năng động, mạnh về kinh tế biển...
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông
PV: Nghị quyết xác định rất rõ mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ phải là vùng phát triển năng động, nhanh, mạnh và bền vững hơn nữa về kinh tế biển. Vậy cụ thể, phát triển kinh tế biển của Vùng được Chính phủ xác định như thế nào để bảo đảm “năng động, nhanh, mạnh và bền vững hơn nữa”, thưa Thứ trưởng?

Thứ trưởng Trần Duy Đông: Nghị quyết số 26-NQ/TW đã xác định: Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ là vùng phát triển năng động, nhanh và bền vững, mạnh về kinh tế biển. Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW đã đưa ra 8 nhóm giải pháp đồng bộ như sau:

Một là, xây dựng kế hoạch cụ thể và phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành để tập trung phát triển các ngành kinh tế biển kết hợp với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên biển (nhất là các ngành như: du lịch và dịch vụ biển; kinh tế hàng hải; khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; nuôi trồng và khai thác hải sản; công nghiệp ven biển; năng lượng tái tạo, nhất là năng lượng gió ven bờ và năng lượng gió ngoài khơi; các ngành kinh tế biển mới).

Hai là, xây dựng, tổ chức thực hiện Quy hoạch Vùng và quy hoạch của từng địa phương trong Vùng giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Mở rộng và xây dựng Trung tâm lọc, hóa dầu và năng lượng quốc gia tại Khu kinh tế Dung Quất; hình thành một số trung tâm năng lượng tái tạo lớn, đặc biệt là điện gió và điện gió ngoài khơi.

Xây dựng quy hoạch hợp lý để phân bố không gian công nghiệp theo các hành lang kinh tế ven biển gắn với các cảng biển, các tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây, các đường quốc lộ kết nối Tây Nguyên với Vùng.

Nghiên cứu cơ chế, chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế ven biển; rà soát, điều chỉnh, phân chia chức năng các khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu, cảng biển, cảng hàng không trong Vùng…

Hình thành các cụm liên kết ngành ở phạm vi liên tỉnh, liên vùng gắn với các trung tâm kinh tế biển mạnh.

Ba là, cơ cấu lại nông, lâm nghiệp; khai thác, nuôi trồng thủy, hải sản gắn với công nghiệp chế biến, bảo đảm bền vững và hiệu quả cao (như: nuôi yến, khai thác yến sào, khai thác cá ngừ). Phát triển các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá kết hợp với quốc phòng, an ninh.

Bốn là, tập trung đầu tư tăng cường hệ thống hạ tầng trọng yếu bảo đảm liên kết Vùng và các tiểu vùng (nhất là trong các lĩnh vực giao thông, năng lượng, công nghệ thông tin, công nghệ số, kinh tế số, đô thị, đào tạo nguồn nhân lực, du lịch và dịch vụ, logicstics, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu).

Năm là, xây dựng đề án cơ cấu lại các ngành dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển các loại hình dịch vụ mới.

Phát triển Vùng trở thành khu vực trọng điểm du lịch của cả nước với các trung tâm du lịch biển, du lịch sinh thái mang tầm khu vực và quốc tế. Phát triển các trung tâm logistics gắn với các cảng biển, cảng hàng không và cửa khẩu.

Sáu là, tập trung đầu tư cho giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Bảy là, thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

Tám là, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên biển, đảo và rừng; bảo vệ môi trường, nhất là môi trường biển; nâng cao khả năng ứng phó với thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu.

PV: Thưa Thứ trưởng, đâu là những giải pháp đột phá được Chính phủ xác định trong Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW?

Thứ trưởng Trần Duy Đông: Giải pháp đột phá được Chính phủ xác định trong Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Bộ Chính trị tập trung vào 5 nhóm giải pháp chính là:

Thứ nhất, xây dựng thể chế liên kết Vùng để điều phối và kết nối phát triển Vùng, nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động liên kết nội vùng, liên vùng; phù hợp với định hướng và đặc thù phát triển vùng, tiểu vùng.

Thứ hai, xây dựng, tổ chức thực hiện Quy hoạch vùng và quy hoạch từng địa phương trong Vùng giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 để điều phối, quản lý thống nhất Vùng và các tiểu vùng, tạo cơ sở pháp lý để các địa phương trong Vùng liên kết, hợp tác; quy hoạch Vùng và quy hoạch các địa phương phải thể hiện tầm nhìn dài hạn, tổng thể cùng với các giải pháp đồng bộ, đột phá để mở rộng không gian và huy động tối đa nguồn lực cho phát triển; bảo đảm gắn kết và phát huy hiệu quả liên kết kinh tế Vùng, giữa phát triển các khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp với các khu du lịch và dịch vụ, giữa phát triển đô thị với xây dựng nông thôn mới, giữa phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường biển, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thứ ba, điều chỉnh, bổ sung cơ chế chính sách đặc thù, phân bổ nguồn lực, nguồn nhân lực, quan hệ đối ngoại nhằm khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của Vùng, giải quyết các vấn đề trọng điểm tại Vùng, các vấn đề liên ngành, liên vùng.

Thứ tư, tập trung đầu tư tăng cường hệ thống hạ tầng trọng yếu bảo đảm liên kết Vùng và các tiểu vùng.

Thứ năm, tập trung đầu tư cho giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân lực số, đổi mới giáo dục nghề nghiệp gắn với thế mạnh và định hướng phát triển Vùng, coi đây là một trong những khâu đột phá cho phát triển Vùng.

PV: Tại Hội nghị quán triệt Nghị quyết số 26-NQ/TW tháng 11/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo: Kiên quyết "không đánh trống bỏ dùi", "không đầu voi đuôi chuột" khi thực hiện Nghị quyết. Chính phủ có những giải pháp cụ thể nào để thực hiện theo chỉ đạo của Tổng Bí thư, thưa Thứ trưởng?

Thứ trưởng Trần Duy Đông: Quán triệt chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong quá trình xây dựng Chương trình hành động của Chính phủ đã quán triệt 6 yêu cầu trong xây dựng nội dung và tổ chức thực hiện, gồm:

(1) Việc xây dựng và ban hành Nghị quyết về Chương trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW được xây dựng trên cơ sở bám sát quan điểm, mục tiêu nêu trong Nghị quyết, nhằm cụ thể hóa mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nêu tại Nghị quyết bằng những nhiệm vụ, giải pháp thiết thực của Chính phủ gắn với kế hoạch tổ chức thực hiện theo lộ trình, thời gian cụ thể để khơi thông nguồn lực, tháo gỡ các điểm nghẽn nhằm đạt được các mục tiêu của Nghị quyết.

(2) Phát huy vai trò kiến tạo, chỉ đạo tập trung của Chính phủ; sự phối hợp đồng bộ, có trách nhiệm của từng bộ, cơ quan trung ương, địa phương trong vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ theo nguyên tắc phân công, phân nhiệm rõ ràng, tập trung, dân chủ, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ với UBND các tỉnh, thành phố.

Để hiện thực hóa mục tiêu đề ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các đối tác phát triển kêu gọi tài trợ khoảng 45 dự án, với tổng quy mô vốn 1,745 tỷ USD với 8 đối tác lớn, gồm: Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tại Việt Nam, Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) tại Việt Nam, Quỹ Phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD) tại Việt Nam, Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tại Việt Nam, Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) tại Việt Nam, Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hàn Quốc (KEXIM) tại Việt Nam, Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) tại Việt Nam, Ngân hàng Thế giới (WB).

(3) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ: Chịu trách nhiệm toàn diện trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về kết quả thực hiện của bộ, ngành, địa phương mình (chủ động triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể của bộ, ngành, địa phương mình, kịp thời xử lý vấn đề phát sinh, đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong việc giám sát, tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ được giao).

(4) Trước ngày 15/02/2023, các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ: Xây dựng, ban hành Chương trình, Kế hoạch hành động, văn bản cụ thể triển khai thực hiện Nghị quyết của Chính phủ, trong đó xác định rõ, đầy đủ các mục tiêu, nhiệm vụ, tiến độ thực hiện, dự kiến kết quả đầu ra đối với từng nhiệm vụ và phân công đơn vị chủ trì thực hiện.

(5) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ: Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát tiến độ, kết quả thực hiện nhiệm vụ, đề án được giao; định kỳ hằng năm, tổng hợp, đánh giá tình hình thực hiện, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước ngày 15/12 để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

(6) Các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội phối hợp chặt chẽ với cơ quan hành chính nhà nước các cấp, tăng cường giám sát thực thi công vụ, phản biện xã hội và đóng góp ý kiến, góp phần tạo đồng thuận trong công tác tổ chức triển khai thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị quyết này.

Xin trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!