Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp 4.0: Nhìn lại 1 năm để bước tiếp
Ngày 8/12, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức Hội thảo về Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Tình hình triển khai và các giải pháp trong thời gian tới (CMCN 4.0).
Ông Nguyễn Hoa Cương, Phó Viện trưởng CIEM phát biểu khai mạc Hội thảo |
Phát biểu khai mạc, ông Nguyễn Hoa Cương, Phó Viện trưởng CIEM chỉ rõ, hội thảo là một hoạt động trong nhiệm vụ theo dõi, đánh giá tình hình và kết quả triển khai Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến năm 2030 (Quyết định số 2289/QĐ-TTg ngày 31/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ), trong đó Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) được giao là cơ quan đầu mối thực hiện (theo Quyết định số 183/QĐ-BKHĐT ngày 22/02/2021 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Những kết quả đạt được sau 1 năm triển khai Chiến lược
Theo ông Cương, sau 1 năm triển khai Quyết định số 2289/QĐ-TTg, các bộ, ngành và địa phương đã tổ chức quán triệt và phổ biến tinh thần và nội dung của Chiến lược tới các đơn vị, doanh nghiệp ở Bộ, ngành và địa phương gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW.
Một số bộ, ngành và địa phương cũng đã chủ động ban hành các kế hoạch hành động triển khai Quyết định số 2289/QĐ-TTg về Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Một số điểm sáng trong triển khai thực hiện Chiến lược như: các bộ, ngành và địa phương đẩy mạnh nghiên cứu đề xuất hoàn thiện thể chế thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc thúc đẩy CMCN 4.0; Các bộ, ngành và địa phương đã chủ động lồng ghép các mục tiêu, nhiệm vụ của Chiến lược CMCN 4.0 vào các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch ngành/lĩnh vực; Các bộ, ngành và địa phương cũng đã sớm chủ động tham gia CMCN 4.0: đã ban hành các các chương trình, kế hoạch triển khai ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, chính phủ điện tử, đổi mới sáng tạo; chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo; Các bộ, ngành và địa phương cũng đã ban hành danh mục dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4, thực hiện tích hợp, cung cấp trên Cổng dịch vụ công quốc gia; ban hành Chương trình Chuyển đổi số ngành Y tế, thư viện,…; thực hiện thí điểm Chuyển đổi số cấp huyện, cấp xã; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số trong quản lý và trong dạy học…
Hệ thống Quản lý văn bản và Điều hành được triển khai đồng bộ cho các cơ quan nhà nước từ trung ương, tới cấp tỉnh đến cấp xã, đảm bảo kết nối gửi nhận liên thông văn bản điện tử giữa các đơn vị trên địa bàn tỉnh và đã được kết nối gửi nhận liên thông văn bản Quốc gia.
Điều đáng mừng là các bộ, ngành và địa phương đã bố trí nguồn lực ưu tiên cho phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số, chuyển đổi số và ứng dụng, triển khai trí tuệ nhân tạo.
Công tác giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực bước đầu có sự đổi mới; nội dung, chương trình đào tạo đã tiếp cận với nội dung cuộc CMCN 4.0, nhất là lĩnh vực công nghệ thông tin; Học viện Chính sách và Phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã thành lập khoa Kinh tế số, nhằm đào tạo bậc cử nhân đầu tiên về kinh tế số ở nước ta.
|
Thay mặt nhóm nghiên cứu của CIEM, TS. Hồ Công Hòa, Phó trưởng ban Ban Nghiên cứu các vấn đề xã hội cho biết thêm, trong năm qua, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo từng bước được xây dựng và phát triển. Chính sách khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo và đầu tư mạo hiểm được đưa vào Luật Chuyển giao công nghệ và Luật Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2017. Đến nay cả nước có hơn 50 khu không gian làm việc chung, 40 vườm ươm và tổ chức tăng tốc khởi nghiệp. Số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp dựa trên công nghệ, tài sản trí tuệ, mô hình kinh doanh mới tăng nhanh;
Lĩnh vực công nghệ tài chính (Fintech) cũng có chuyển biến rất mạnh mẽ. Ngân hàng nhà nước đã chú trọng thúc đẩy việc ứng dụng các công nghệ mới vào hoạt động quản lý, kinh doanh ngành ngân hàng, đẩy mạnh hiện đại hóa hệ thống.
“Chủ trương ứng dụng công nghệ cao và phát triển sản phẩm theo chuỗi trong các ngành nông nghiệp và công nghiệp được Chính phủ quan tâm chỉ đạo quyết liệt. Các chính sách thu hút đầu tư phát triển công nghệ cao, chính sách ưu đãi về thuế, đất đai được Chính phủ ban hành đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi khuyến khích doanh nghiệp trong nước, thu hút doanh nghiệp nước ngoài đầu tư phát triển và ứng dụng công nghệ cao tại Việt Nam”, ông Hòa chỉ rõ.
Văn bản pháp luật ban hành thường "chậm nhịp" so với sự sôi động, luôn đổi mới của CMCN 4.0
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, quá trình triển khai Quyết định số 2289/QĐ-TTg còn gặp một số khó khăn, thách thức.
Nhóm nghiên cứu chỉ rõ, mặc dù hệ thống văn bản đã được ban hành nhằm thúc đẩy áp dụng các thành quả của CMCN 4.0, nhưng thường đi chậm nhịp so với sự sôi động, luôn đổi mới của CMCN 4.0.
“Việc ban hành các văn bản pháp lý, đề án, chương trình triển khai luật còn chậm, thiếu các hướng dẫn, dẫn đến những khó khăn cho việc triển khai trong thực tế, đặc biệt là đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp. Các tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và các văn bản hướng dẫn thi hành thời gian qua còn chưa cụ thể”, ông Hòa dẫn chứng.
Cân đối ngân sách nhà nước còn khó khăn, nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đầu tư cho lĩnh vực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo nói riêng còn rất lớn, vượt quá khả năng cân đối của ngân sách nhà nước. “Trong khi, chúng ta chưa huy động được nhiều nguồn lực cho hoạt động khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo, đặc biệt từ doanh nghiệp”, ông Hòa quan ngại.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực có trình độ cao còn hạn chế. Năng suất lao động của Việt Nam tuy có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm, nhưng vẫn còn rất thấp so với nhiều nước trong khu vực. Năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam chỉ đứng thứ 93/127 quốc gia.
“Đại dịch Covid-19 bùng phát, ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế và hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, trao đổi thúc đẩy CMCN 4.0”, đại diện nhóm nghiên cứu cho biết.
Theo TS. Trịnh Minh Tâm, Viện Đánh giá Khoa học và Định giá công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, các thách thức chúng ta phải đối mặt là rất lớn, nhất là trong điều kiện của một nước đang phát triển.
Mặc dù trình độ học vấn của người Việt Nam nói chung được nâng cao, nhưng tỷ lệ lao động có kỹ năng còn thấp. Năng suất lao động của Việt Nam tuy có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm, nhưng vẫn còn rất thấp so với nhiều nước trong khu vực. Năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam chỉ đứng thứ 93/127 quốc gia.
Về hạ tầng số, cả về hạ tầng thiết bị, kết nối, dữ liệu, ứng dụng và nhân lực công nghệ thông tin, Việt Nam mới đang ở trình độ trung bình thế giới. Theo xếp hạng chỉ số phát triển chính phủ điện tử của Liên hợp quốc năm 2016, Việt Nam chỉ xếp thứ 89/193 quốc gia và đứng thứ 6 ASEAN.
Gần đây, khi đánh giá mức độ sẵn sàng của các quốc gia tham gia Cách mạng công nghiệp 4.0, Diễn đàn kinh tế thế giới xếp Việt Nam vào Nhóm quốc gia sơ khởi nhưng tiệm cận rất gần với Nhóm có triển vọng cao với xếp hạng 48/100 về cấu trúc của nền sản xuất và 53/100 về các yếu tố dẫn dắt sản xuất.
"Điều này cho thấy, so với các quốc gia thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp, Việt Nam có cơ hội tốt hơn để hưởng lợi từ Cách mạng công nghiệp 4.0 để phát triển bứt phá. Nhưng để biến cơ hội thành hiện thực, cần có giải pháp chiến lược và hành động khẩn trương để vượt qua thách thức, đồng thời, cần sự vào cuộc và chủ động ứng phó của các cơ quan chính phủ, lực lượng khoa học - công nghệ, doanh nghiệp và người dân", vị chuyên gia này nói.
Toàn cảnh hội thảo |
Doanh nghiệp cần sẵn sàng cho sự cạnh tranh mới
Nhìn dưới góc độ doanh nghiệp, TS. Đào Đình Khả, Giám đốc phòng nghiên cứu Fintech, Viện quốc tế Pháp ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định, việc điều hành một doanh nghiệp trong thế kỷ 21 hoàn toàn khác so với trước đây. Ở một số khía cạnh, kinh doanh dễ dàng hơn, nhưng cũng phức tạp và thách thức hơn nhiều.
Vào thế kỷ 20, một doanh nghiệp nhỏ chỉ có thể hoạt động tại địa phương. Ngày nay, không ít các ví dụ đã chứng minh một doanh nghiệp quy mô nhỏ có thể tận dụng công nghệ hiện đại để có khả năng tiếp cận thị trường toàn cầu.
“Thời gian tồn tại yên ổn của doanh nghiệp đang ngắn lại. Doanh nghiệp cần sẵn sàng cho sự cạnh tranh mới, nhu cầu mới từ khách hàng, mô hình đáp ứng mới, yêu cầu mới về nhân tài và động lực toàn cầu mới đã trở thành những yếu tố không thể tách rời của “điều bình thường mới”. Các doanh nghiệp phải tìm ra cách giải quyết tất cả những thách thức bất ngờ đó trong khi vẫn đạt được các mục tiêu kinh doanh của mình”, ông Khả nêu rõ.
Ông cũng chỉ rõ, sự gia tăng nhanh của các công nghệ sản xuất số làm bối rối, khiến nhiều nhà sản xuất lúng túng vì không chuẩn bị do không hiểu thực sự về cách các công nghệ mới nổi có thể tác động đến thị trường.
Chuyển đổi số mang đến những lợi thế mà các ứng dụng CNTT riêng lẻ trước đây không giải quyết được thấu đáo. “Nói cách khác, chuyển đổi số là chuyển đổi một cách toàn diện trên mọi khía cạnh để sang một trạng thái mới hiệu quả hơn trong môi trường số”, vị chuyên gia này nhận định.
Đối với doanh nghiệp, chuyển đổi số không chỉ giới hạn ở một sản phẩm hay quy trình nghiệp vụ. Chuyển đổi số thay đổi căn bản cách vận hành, văn hóa doanh nghiệp đòi hỏi các tổ chức phải liên tục thách thức hiện trạng, thử nghiệm và không lo lắng thất bại.
“Chuyển đổi số là sự tích hợp của công nghệ kỹ thuật số vào tất cả các lĩnh vực của một doanh nghiệp, thay đổi căn bản cách vận hành và mang giá trị đến cho khách hàng. Đó cũng là một thay đổi văn hóa đòi hỏi các tổ chức phải liên tục thách thức hiện trạng, thử nghiệm và không lo lắng thất bại”, nhấn mạnh tư duy chuyển đổi, ông Khả lưu ý.
Một trong các vấn đề liên quan đến nhận thức cần chú trọng để thuyết phục các doanh nghiệp đầu tư vào chuyển đổi số đó là câu hỏi mang tính căn bản “chuyển đổi số là gì?”.
Ông Khả cho rằng, chỉ khi trả lời rõ ràng được câu hỏi này mới có thể thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư nguồn lực vào chuyển đổi số. Theo ông, đặc điểm khác biệt lớn nhất giữa số hóa, ứng dụng CNTT và chuyển đổi số là mục đích. Số hóa là chuyển các thông tin phát sinh trong quá trình hoạt động của một doanh nghiệp sang dạng số, có thể lưu trữ bằng các thiết bị dạng điện tử, có thể xử lý bởi các công cụ tính toán và có thể truyền tải thông qua mạng Internet. Nhờ có số hóa, tất cả mọi thứ, ở khắp mọi nơi sẽ được kết nối bằng kỹ thuật số.
Ứng dụng CNTT được hiểu là sử dụng các công nghệ (dưới dạng các sản phẩm, giari pháp) để làm tốt các quy trình hoạt động đã được xác định của một doanh nghiệp. Khi nhận thức được sự khác biệt của số hóa, ứng dụng CNTT và chuyển đổi số, doanh nghiệp sẽ hiểu được cần chuẩn bị để triển khai các hoạt động này theo cách khác nhau. Ví dụ, đối với chuyển đổi số việc tham dự của lãnh đạo cần ở mức cao nhất vì chỉ có lãnh đạo mới quyết định được liệu mô hình nghiệp vụ cải tiến hoặc hoàn toàn mới có thể được áp dụng hay không. Trong hai trường hợp số hóa và ứng dụng CNTT, về bản chất, các quy trình nghiệp vụ không có sự thay đổi hoặc thay đổi không đáng kể, nên người lãnh đạo có thể uỷ quyền cho cấp dưới phụ trách các dự án này.
Chính sách cần đến với doanh nghiệp
Để thúc đẩy, tận dụng tốt các thành quả của CMCN 4.0, theo Nhóm nghiên cứu, cần đẩy nhanh quá trình thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển CMCN 4.0, đặc biệt là Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0; Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17/4/2020 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW.
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với xu hướng phát triển của CMCN 4.0, đồng thời đẩy nhanh tiến độ ban hành các văn bản hướng dẫn văn bản pháp luật. Đặc biệt, cần nghiên cứu ban hành quy định cho phép sử dụng các tài sản vô hình làm tài sản bảo đảm, như bằng sáng chế, ý tưởng sáng tạo, các phần mềm,… chính sách cấp bù lãi suất, hỗ trợ công nghệ, hỗ trợ cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung.
|
Ban hành các tiêu chí để cụ thể xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị; các quy định về giao dịch điện tử, chữ ký điện tử, chứng từ điện tử, về định danh, xác thực điện tử, về bảo vệ dữ liệu cá nhân... thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, tạo thuận lợi cho người dân vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa tiếp cận được dịch vụ.
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Viễn thông; và xây dựng Luật Công nghiệp công nghệ số nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý về hạ tầng số, về công nghiệp công nghệ.
Về đầu tư nguồn lực cho CMCN 4.0, nhóm nghiên cứu đề nghị các bộ, ngành và địa phương ưu tiên bố trí nguồn lực đầu tư cho khoa học công nghệ, hỗ trợ chuyển giao và phát triển công nghệ trong các doanh nghiệp. Ưu tiên đầu tư ngân sách nhà nước và có giải pháp cụ thể cho ngành, lĩnh vực khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo đảm bảo đạt tỷ lệ 2% tổng chi ngân sách nhà nước.
Đầu tư hệ thống hạ tầng, cơ sở vật chất cho các ở địa phương, các đơn vị tuyến huyện, xã, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới đảm bảo yêu cầu kỹ thuật trong việc kết nối, liên thông dữ liệu.
Một giải pháp được đề cập tới là phát triển nguồn nhân lực cho CMCN 4.0. Nhóm nghiên cứu cho rằng, cần tăng nguồn nhân lực về công nghệ thông tin, đặc biệt là nguồn nhân lực có trình độ cao có thể làm chủ các công nghệ chủ chốt của cuộc CMCN 4.0. Tăng khả năng phối hợp, liên kết đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nguồn nhân lực giữa nhà trường, các trung tâm đào tạo với doanh nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Lê Hải Bình, Chủ tịch AXYS Group chỉ rõ, hiện nay, chúng ta đang tập trung hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp, mà đang bỏ quên nhiều doanh nghiệp đang và đã hoạt động từ nhiều năm.
Ông Bình lưu ý tới việc phải làm sao chính sách hỗ trợ của Chính phủ cụ thể, rõ ràng hơn và phải đến được doanh nghiệp. “Nhiều chính sách rất hay, nhưng không đến được với doanh nghiệp”, ông Bình nói và chia sẻ rằng, dù công ty ông là doanh nghiệp đặc thù, cung cấp giải pháp, công nghệ liên quan đến chuyển đổi số đã 20 năm nay, nhưng chưa tiếp cận được chính sách hỗ trợ nào, đặc biệt là vốn.
“Tôi tâm đắc với ý kiến của anh Hòa, doanh nghiệp giải pháp, doanh nghiệp công nghệ thường nghèo, không có bất động sản, nên thường khó vay vốn. Chúng tôi 20 năm nay chưa tiếp cận được nguồn vốn này để phát triển”, ông Bình chia sẻ.
Ông cho rằng, việc hỗ trợ liên quan đến bản quyền, thuế đất, thuê văn phòng… cần cụ thể hơn. Ông lưu ý, khi mà một doanh nghiệp nói chung muốn chuyển đổi số thành công, sau yếu tố tiên quyết là thay đổi tư duy, thì việc tiếp theo phải có đội ngũ hỗ trợ giải pháp công nghệ, đội ngũ này phải ở Việt Nam. "Do đó, nếu không có chính sách hỗ trợ cho đội ngũ hỗ trợ này, thì chúng ta khó có thể thành công", ông Bình băn khoăn.
Chia sẻ về sự khó khăn của doanh nghiệp trong tiếp cận vốn, bà Nguyễn Thanh Thảo, Giám đốc phát triển kinh doanh cấp cao Qualcomm Việt Nam cho rằng, sở hữu trí tuệ rất quan trọng với doanh nghiệp. “Nếu có thể thế chấp được bất động sản, thì có thể thế chấp quyền sở hữu trí tuệ. Thực tế cho thấy, ở những quốc gia có chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tốt, vững chắc, doanh nghiệp của họ thu hút được đầu tư nhiều hơn”, bà đề xuất./.
Bình luận