Tăng năng suất lao động - điều kiện giúp Việt Nam “bắt kịp, tiến cùng và vượt lên” các quốc gia trong khu vực
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương đã nhấn mạnh điều này tại Hội thảo “Thúc đẩy năng suất lao động cho tăng trưởng bền vững ở Việt Nam”, diễn ra sáng nay, ngày 29/11.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương phát biểu khai mạc Hội thảo: “Thúc đẩy năng suất lao động cho tăng trưởng bền vững ở Việt Nam |
Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cần dựa trên thúc đẩy năng suất lao động
Thứ trưởng cho biết, sau hơn 35 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong phát triển kinh tế - xã hội. Ngay cả trong thời kỳ khó khăn do dịch COVID-19, kinh tế Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng dương. Quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng theo hướng cải thiện chất lượng tăng trưởng. Cụ thể, tăng trưởng kinh tế đã giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, xuất khẩu thô, lao động nhân công giá rẻ và mở rộng tín dụng, từng bước chuyển sang dựa vào ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đáng chú ý hơn, ở Việt Nam, thành quả tăng trưởng kinh tế đã đi đôi với công bằng thay vì phải đánh đổi công bằng để tăng trưởng nhanh.
Những thành công trong quá khứ đã thúc đẩy Việt Nam hướng tới các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống cao hơn. Việt Nam cũng xác định các trụ cột chính để hiện thực hóa khát vọng vươn cao, trong đó, nhấn mạnh duy trì tăng trưởng cao dựa trên thúc đẩy năng suất lao động, nuôi dưỡng nền kinh tế đổi mới sáng tạo, để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế gắn với độc lập, tự chủ.
Với những yêu cầu đó, tăng năng suất lao động là yếu tố quan trọng đối với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, và là điều kiện tiên quyết để giúp Việt Nam thu hẹp trình độ phát triển với các nước trong khu vực, hướng tới mục tiêu là nước phát triển với thu nhập cao vào năm 2045.
Trong giai đoạn vừa qua, năng suất lao động của Việt Nam cũng có những cải thiện đáng kể. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 5,8%/năm, cao hơn mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015 trước đó. Năm 2021, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam khoảng 4,7%, cao nhất trong các nước ASEAN. Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn là nước có mức năng suất lao động thấp và khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm cụ thể nhằm đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tại Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2022, Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động. Triển khai nhiệm vụ này, trong gần một năm vừa qua, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã chủ động nghiên cứu, khảo sát thực tế tại một số địa phương, tổ chức các hội thảo chuyên gia, tọa đàm kỹ thuật để xây dựng Dự thảo Báo cáo Đề án Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động làm nền cho thảo luận và tiếp tục lấy ý kiến tại Hội thảo ngày hôm nay.
Ông Gregogy Leon, Giám đốc Phòng Phát triển kinh tế và Quản trị nhà nước, USAID nhận định rằng, năng suất lao động là tác nhân chính của nền kinh tế. Ảnh: MPI |
Đồng tình với những nhận định của Thứ trưởng Phương, ông Gregogy Leon, Giám đốc Phòng Phát triển kinh tế và Quản trị nhà nước, USAID nhận định rằng, năng suất lao động là tác nhân chính của nền kinh tế. Năng suất lao động của Việt Nam đang ở mức thấp so với nhiều quốc gia trong khu vực.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu là do doanh nghiệp trong nước vẫn sử dụng nhiều lao động; gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận và ứng dụng công nghệ mới, tăng cường năng lực quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm, tác động trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực và toàn cầu.
Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam còn chậm và có xu hướng giảm
Trong khi đó đây là lại là yếu tố quan trọng để nền kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng nhanh và bền vững trong dài hạn.
Ông Đặng Đức Anh, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, năng suất lao động của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể, tăng 2,5 lần, từ 70,3 triệu đồng/lao động năm 2011 lên 171,8 triệu đồng/lao động năm 2021. Tốc độ tăng trưởng năng suất lao động trong 10 năm 2011-2020 đạt 6,0%, trong đó, giai đoạn 2011-2015 đạt 5,5% và giai đoạn 2016-2020 đạt 6,4% (vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 5,0%).
Tuy vậy, năng suất lao động của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và chênh lệch có xu hướng gia tăng. Trong khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, mặc dù năng suất lao động thấp nhưng tốc độ tăng tương đối cao do quá trình chuyển dịch cơ cấu.
Theo vùng kinh tế trọng điểm, năng suất lao động không đồng đều, tập trung ở một số thành phố lớn (Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu...) và chủ yếu ở hai vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và phía Nam.
Đáng lưu ý, tốc độ tăng năng suất lao động có xu hướng giảm dần, các địa phương “dẫn dắt” trong vùng chưa phát huy hết vai trò lan tỏa, chưa đóng vai trò thúc đẩy và lôi kéo tăng trưởng của vùng.
Nguyên nhân là còn những tồn tại, hạn chế do việc ứng dụng công nghệ trong sản xuất nông nghiệp còn hạn chế, chưa tác động tăng cao năng suất nội ngành; thiếu đồng bộ trong phát triển chuỗi giá trị các ngành công nghiệp; sử dụng nhiều tài nguyên, lao động, tiếp nhận chuyển giao công nghệ còn hạn chế; hạ tầng cho phát triển dịch vụ hiện đại kém phát triển; phần lớn doanh nghiệp có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, hạn chế về tiếp cận và ứng dụng công nghệ; liên kết khu vực FDI và khu vực trong nước còn yếu; hạ tầng kết nối của các vùng kinh tế trọng điểm chưa theo kịp sự phát triển, liên kết về kinh tế giữa các địa phương ít dựa trên sự chuyên môn hóa hay phân công lao động theo chuỗi giá trị; khu vực kinh tế phi chính thức tương đối lớn; thể chế, chính sách liên quan chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ, chưa đầy đủ, chương trình hỗ trợ thúc đẩy năng suất chưa có sự thay đổi thích ứng với các yêu cầu mới.
Cần coi năng suất lao động là động lực, nền tảng cho tăng trưởng nhanh, bền vững
Từ thực trạng và bối cảnh hiện nay, Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động hướng tới mục tiêu coi năng suất lao động là động lực, nền tảng cho tăng trưởng nhanh, bền vững; trên cơ sở tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư, chuyển đổi số và thông qua thúc đẩy liên kết vùng và phát triển vùng; từ đó góp phần gia tăng khả năng cạnh tranh, mức độ độc lập, tự chủ và sức chống chịu của nền kinh tế.
Toàn cảnh hội thảo. Ảnh: MPI |
Chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động dự kiến đặt ra một số chỉ tiêu như tốc độ tăng năng suất lao động bình quân từ 6,5-7,0%/năm; tốc độ tăng năng suất lao động của các vùng kinh tế trọng điểm và 5 thành phố lớn cao hơn trung bình cả nước; nâng cao tỷ trọng đóng góp của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng; phấn đấu nằm trong nhóm hàng đầu của ASEAN về tốc độ tăng năng suất lao động vào năm 2030; năng lực Đổi mới sáng tạo (của WIPO) thuộc nhóm 40 nước đứng đầu; Chính phủ điện tử (của Liên hợp quốc) thuộc nhóm 60 nước đứng đầu.
Để thực hiện được mục tiêu đề ra, Chương trình đưa ra các nhóm giải pháp cụ thể liên quan đến cơ chế, chính sách thực hiện phong trào thúc đẩy năng suất lao động quốc gia; ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia; đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; huy động nguồn lực; cải thiện giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng nhân lực; phát triển vùng và liên kết vùng; nhóm giải pháp về ngành; hợp tác quốc tế.
Trong khuôn khổ Hội thảo đã diễn ra phiên thảo luận về cơ hội và sáng kiến thúc đẩy năng suất lao động cho tăng trưởng bền vững ở Việt Nam. Các diễn giả cho rằng, tăng năng suất lao động là điều kiện tiên quyết, là nhiệm vụ quan trọng, thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, vừa là trọng tâm chiến lược nhằm góp phần cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và giúp Việt Nam “bắt kịp, tiến cùng và vượt lên” các quốc gia trong khu vực.
TS. Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương nhấn mạnh giải pháp phải tăng ứng dụng chuyển đổi số. Ông đề xuất cần có các chính sách ưu tiên cho kinh tế số theo thứ tự ưu tiên (PECC, 2017), như: bảo hộ dữ liệu, hạ tầng số, quyền riêng tư, tiếp cận băng thông rộng, kỹ năng số, khả năng tương tác các nền tảng, dịch chuyển dữ liệu xuyên biên giới, khung khổ chính sách.
"Cần cải cách giáo dục, tập trung tại khối đại học và dạy nghề để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng", vị chuyên gia này nhấn mạnh.
Còn ông Gregory Leon lưu ý rằng, tại Việt Nam nền kinh tế phi chính thức đang tồn tại song song cùng nền kinh tế chính thức, nên cần có các chính sách chính thức hoá khu vực này để các doanh nghiệp đó có cơ hội kinh doanh tốt hơn. Ông đề xuất, Việt Nam cần tập trung vào giáo dục đào tạo nghề nghiệp để tăng kỹ năng và năng suất lao động.
Kết luận Hội thảo, Thứ trưởng Trần Quốc Phương cảm ơn và đánh giá cao ý kiến của các diễn giả, đại biểu, mở ra những góc nhìn mới về điểm nghẽn cũng như tìm kiếm các cơ hội và đề xuất sáng kiến, giải pháp đối với tăng năng suất lao động; đề nghị Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, tiếp thu, bổ sung để hoàn thiện Đề án Chương trình, sớm trình cấp có thẩm quyền theo quy định.
Thứ trưởng Trần Quốc Phương nhấn mạnh, trong thời gian tới cần triển khai thực hiện quyết liệt các nội dung như: cải cách mạnh mẽ hơn nữa nền tảng về thể chế để mọi nguồn lực có thể huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nhất, thúc đẩy hỗ trợ khu vực tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế; tiếp tục thu hút FDI một cách chọn lọc, ưu tiên các dự án chất lượng cao, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động hiệu quả hơn.
Tiếp tục hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, tham gia vào dòng chảy thương mại toàn cầu, biến dòng chảy đó thành động lực cho cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh và năng suất lao động. Cùng với đó là thúc đẩy và hình thành các động lực từ các vùng kinh tế trọng điểm, các cực tăng trưởng dựa trên hạ tầng kết nối, cơ chế đặc thù, thúc đẩy thu hút công nghệ mới, bao gồm công nghệ số, đổi mới sáng tạo; lựa chọn ưu tiên phát triển một số ngành có tiềm năng. Tập trung cải thiện hiệu quả thị trường lao động, thiết lập cơ chế đủ mạnh để thu hút nhân tài, mở rộng, phổ cập nâng cao chất lượng cơ sở đào tạo nguồn nhân lực.
Đồng thời, cần tiếp tục thay đổi mạnh mẽ cơ chế thực thi, khuyến khích các sáng kiến, phong trào thúc đẩy sản xuất quốc gia, nâng cao năng lực quản trị nhà nước, năng lực cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, xây dựng cơ chế mới, để mọi lao động đều được trao cơ hội, qua đó phát huy tối đa năng lực của mình, đóng góp vào sự thịnh vượng chung của nền kinh tế./.
Bình luận