Hội nghị điều phối vùng Đồng bằng sông Hồng lần thứ hai: Thảo luận Quy hoạch vùng 2021-2030
Chiều ngày 07/12/2023, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Hồng đã chủ trì Hội nghị điều phối vùng Đồng bằng sông Hồng lần thứ hai tại Hội trường Văn phòng Chính phủ; Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hà Nội Đinh Tiến Dũng và Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Hồng Nguyễn Chí Dũng (đồng thời là đại diện Cơ quan lập quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng) đồng chỉ trì Hội nghị.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Hồng đã chủ trì Hội nghị điều phối vùng Đồng bằng sông Hồng lần thứ hai. Ảnh: VGP |
Tổ chức không gian, bố trí lãnh thổ của vùng Đồng bằng sông Hồng còn bộc lộ nhiều bất hợp lý
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính, chỉ rõ, vùng Đồng bằng sông Hồng - địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa, lịch sử đặc sắc của dân tộc; là cực tăng trưởng của cả nước.
Vùng gồm 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình (trong đó có 2 thành phố trực thuộc Trung ương là Hà Nội, Hải Phòng).
Vùng có diện tích tự nhiên là 21.253 km2, chiếm 6,42% diện tích của cả nước; dân số 22,92 triệu người, chiếm 23,49% dân số cả nước; mật độ dân số 1.087 người/km2, cao nhất so với các vùng khác và gấp 3,66 lần so với mật độ trung bình chung của cả nước.
Vùng có vị trí trung tâm, được coi là cửa ngõ phía Bắc của nước ta và ASEAN về kết nối phát triển kinh tế, thương mại với Trung Quốc - một thị trường rộng lớn nhất thế giới và ngược lại.
Vùng có Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị-hành chính quốc gia với lịch sử hàng nghìn năm; có quy mô dân số lớn nhất cả nước với lực lượng lao động có trình độ cao; có hệ thống hạ tầng giao thông kết nối đồng bộ và tốt nhất cả nước về cả đường bộ - có hệ thống cao tốc dài nhất của cả nước, đường biển, đường sông, đường hàng không, đường sắt; có hệ thống đô thị và các cơ sở kinh tế tương đối mạnh, trong đó hạt nhân là Thủ đô Hà Nội - đô thị loại đặc biệt.
Vùng có cơ cấu kinh tế khá tích cực, khu vực công nghiệp-xây dựng và dịch vụ giữ vai trò trụ cột; thu hút được nhiều dự án đầu tư nước ngoài. Kể từ năm 2015 cho tới nay, vùng có tốc độ tăng trưởng rất ấn tượng, gấp 1,37 lần tốc độ tăng trưởng bình quân chung cả nước.
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ phát triển mạnh mẽ, đi đầu trong thực hiện các đột phá chiến lược và đổi mới mô hình tăng trưởng. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tập trung đầu tư và phát triển khá đồng bộ, hiện đại, nhất là hạ tầng giao thông; phát huy tốt vai trò của các hành lang, vành đai kinh tế. Quản lý, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường được chú trọng; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. Văn hóa - xã hội được quan tâm phát triển; các giá trị văn hóa được bảo tồn và phát huy; quy mô, chất lượng giáo dục - đào tạo, y tế được nâng lên rõ rệt, dẫn đầu cả nước. Nguồn nhân lực cơ bản đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng nhanh. Khoa học - công nghệ được ứng dụng mạnh mẽ.
"Tuy nhiên, Đồng bằng sông Hồng có không ít hạn chế và khó khăn, thách thức lớn", Thủ tướng thẳng thắn chỉ ra. Cụ thể là tăng trưởng kinh tế của vùng thời gian qua chưa thực sự ổn định và chưa đồng đều giữa các địa phương trong vùng. Cơ cấu ngành nghề chưa hiện đại, nền tảng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thiếu vững chắc, trình độ công nghệ còn thấp, hiệu suất phát triển chưa cao, doanh nghiệp chủ yếu là quy mô nhỏ, khả năng cạnh tranh thấp.
Tổ chức không gian, bố trí lãnh thổ còn bộc lộ nhiều bất hợp lý, đặc biệt sự quá tải tại các khu vực đô thị, nhất là ở nội đô Hà Nội, Hải Phòng. Cùng với đó là ảnh hưởng khách quan của biến đổi khí hậu, khai thác sử dụng tài nguyên với cường độ cao, thiếu bền vững, gây ô nhiễm môi trường…
Toàn cảnh Hội nghị. Ảnh: VGP |
Cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể quốc gia tạo ra các động lực, không gian phát triển mới cho vùng
Thủ tướng cho rằng, việc triển khai lập và hoàn thiện quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng trong thời điểm này có nhiều thuận lợi để cụ thể hóa tầm nhìn, quan điểm, mục tiêu đã được xác định tại Nghị quyết phát triển vùng và quy hoạch cấp quốc gia vào vùng, cụ thể hóa việc bố trí không gian phát triển các ngành quốc gia trên địa bàn, giải quyết các vấn đề xung đột giữa các ngành, lĩnh vực trên địa bàn vùng; triển khai nghiên cứu các dự án mang tính kết nối quan trọng giữa các tỉnh trong vùng, liên vùng và liên ngành.
Tại Hội nghị, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin tham vấn, lấy ý kiến của các thành viên, ủy viên của Hội đồng điều phối vùng và các cơ quan, tổ chức liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học đối với bản Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trên cơ sở đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tập trung nghiên cứu, tiếp thu và hoàn thiện hồ sơ Quy hoạch vùng để sớm tổ chức thẩm định và trình phê duyệt theo quy định. |
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 là bước cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể quốc gia, thể hiện những định hướng lớn và cơ bản của các quy hoạch ngành quốc gia về định hướng và tổ chức không gian phát triển; tạo ra các động lực phát triển, tiềm năng phát triển, không gian phát triển mới của quốc gia, của vùng và thể hiện cụ thể trên phạm vi không gian của từng địa phương.
Xác định rõ vị trí vai trò của quy hoạch, ngay từ những ngày đầu tổ chức lập Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành và các địa phương trong vùng để triển khai lập quy hoạch vùng.
Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng được lập trong bối cảnh Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 08/02/2023 về Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị; Quốc hội thông qua Quy hoạch tổng thể quốc gia và Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đặc biệt, hiện nay đã có 108/110 quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia hoàn thành việc lập, thẩm định và phê duyệt; trong đó 52 quy hoạch đã được phê duyệt gồm: 19 quy hoạch cấp quốc gia, 01 quy hoạch vùng là vùng Đồng bằng sông Cửu Long, 32 quy hoạch tỉnh.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng (giữa) chụp với cán bộ, công chức Bộ Kế hoạch và Đầu tư tham gia Hội nghị. Ảnh: Nhật Bắc |
Quy hoạch đề xuất những điểm mới, có tính đột phá mạnh mẽ trong định hướng phát triển
Xuất phát từ những tiềm năng, lợi thế và những kết quả đã đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội nêu trên, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng đã đề xuất những điểm mới, có tính đột phá mạnh mẽ trong định hướng phát triển.
Thứ nhất, phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế vượt trội để phát triển nhanh, bền vững vùng Đồng bằng sông Hồng thực sự là vùng động lực phát triển hàng đầu, có vai trò định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng của đất nước. Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng; xây dựng thể chế liên kết vùng đủ mạnh, bảo đảm hiệu quả điều phối, liên kết phát triển vùng, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực như quy hoạch, phát triển hạ tầng, xúc tiến đầu tư, xử lý các vấn đề môi trường nội vùng và liên vùng, phát triển các cụm liên kết ngành. Thực hiện thí điểm một số mô hình, cơ chế, chính sách mới vượt trội, cạnh tranh quốc tế cao nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng.
Thứ hai, phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, Chính phủ số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo, đi đầu trong phát triển khoa học, công nghệ; phát triển trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia tại Hà Nội. Hình thành các cụm liên kết đổi mới sáng tạo trên cơ sở liên kết các tổ chức khoa học và công nghệ với các khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trung tâm tài chính, quỹ đầu tư mạo hiểm, trường đại học, viện nghiên cứu.
Thứ ba, quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, nhất là tài nguyên đất, tài nguyên nước, khoáng sản theo nguyên tắc thị trường; bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên và nâng cao chất lượng đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thứ tư, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, đa phương thức, hiện đại, đảm bảo đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội với tầm nhìn dài hạn. Ưu tiên phát triển hạ tầng giao thông kết nối nội vùng, liên vùng và quốc tế; phát triển vận tải đa phương thức, phát huy lợi thế về cảng biển, cảng hàng không, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa và các hành lang kết nối của vùng; tập trung cho hạ tầng về kinh tế biển, hạ tầng các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu thương mại tự do và hạ tầng ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông, hạ tầng thủy lợi và bảo vệ nguồn nước phù hợp với định hướng tổ chức và khai thác lãnh thổ, tạo không gian phát triển mới.
Thứ năm, tổ chức hợp lý không gian hệ thống đô thị và phân bố dân cư nông thôn, xây dựng vùng liên tỉnh, kết cấu hạ tầng, nguồn nước lưu vực sông, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường trên cơ sở tăng cường tính liên kết giữa các tỉnh trong vùng và với các vùng khác trong cả nước. Hình thành các khu vực kinh tế động lực, trung tâm kinh tế, đô thị chiến lược có mạng lưới kết cấu hạ tầng đồng bộ, kết nối giữa thành thị, nông thôn với các trung trung tâm kinh tế, khu chức năng, là trung tâm kết nối với quốc tế, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế cao, thúc đẩy thực hiện mục tiêu phát triển công nghiệp hiện đại, thu nhập cao. Phát triển hệ thống đô thị trong vùng theo mạng lưới, phân bố hợp lý, thông minh, hiện đại, thích ứng với biến đổi khí hậu; lấy định hướng phát triển giao thông công cộng (theo mô hình TOD) làm cơ sở quy hoạch đô thị.
Đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá, phát triển các trung tâm hành chính tỉnh, thành phố để tăng cường liên kết và hình thành các chuỗi đô thị, trong đó, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh gắn với phát triển vành đai công nghiệp, đô thị, dịch vụ; chuỗi đô thị tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình gắn với phát triển kinh tế biển, liên kết chặt chẽ thông qua vành đai kinh tế ven biển.
Hội nghị điều phối vùng Đồng bằng sông Hồng lần thứ hai về Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện hiệu quả vai trò của Hội đồng điều phối vùng cùng nhau thảo luận về những "nút thắt", "điểm nghẽn" phát triển của vùng trong thời gian vừa qua và đề ra mục tiêu, phương án phát triển cũng như giải pháp tổ chức thực hiện trong thời gian tới; thúc đẩy liên kết nội dung, liên vùng để hướng đến mục tiêu chung là phát triển nhanh, bền vững, có cơ cấu kinh tế hợp lý, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
"Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sẽ là cơ sở đặc biệt quan trọng để các cấp, các ngành, các địa phương nghiên cứu xây dựng và triển khai thực hiện những chính sách, kế hoạch, chương trình phát triển, các dự án đầu tư nhằm phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước, vùng và địa phương trong vùng", Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh./.
Bình luận