Quy định về đăng ký kinh doanh đối với cá nhân kinh doanh tại các nước trên thế giới
Cách thức và loại hình kinh cá nhân kinh doanh
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, hình thức cá nhân kinh doanh có thể bao gồm cá thể kinh doanh, doanh nghiệp một chủ hay doanh nghiệp cá thể (tạm dịch từ sole proprietorship hay sole trader). Loại hình này có đặc điểm tương tự với với hình thức hộ kinh doanh tại Việt Nam. Điểm khác biệt là các doanh nghiệp cá thể tại quốc gia này, đặc biệt là tại các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển như: Mỹ, Canada, châu Âu, các nước OECD, các nền kinh tế tiên tiến tại Đông Á đều được đăng ký chính thức. Các doanh nghiệp cá thể/một chủ này được đăng ký một cách rất dễ dàng (tại chính quyền sở tại hoặc qua mạng) và chi phí tuân thủ các quy định pháp lý, chế độ kế toán, báo cáo tài chính, đơn giản và gọn nhẹ hơn rất nhiều so với các loại hình công ty khác do bản chất và quy mô của loại hình doanh nghiệp này. Đây là yếu tố quyết định tới tính hấp dẫn của loại hình doanh nghiệp này và khiến phần lớn người dân khi tiến hành đăng ký kinh doanh đã lựa chọn đăng ký chính thức theo hình thức doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp một chủ (như người dân tại Việt Nam đã lựa chọn hình thức hộ kinh doanh).
Hình thức đăng ký kinh doanh đối với cá nhân kinh doanh tại một số nước trên thế giới đều theo hướng đơn giản tối đa thủ tục hành chính |
Theo Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hình thức đăng ký kinh doanh đối với cá nhân kinh doanh tại một số nước trên thế giới đều theo hướng đơn giản tối đa thủ tục hành chính. Tại các nền kinh tế phát triển, hình thức cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp một chủ được đối xử bình đẳng với các hình thức kinh doanh khác dù đây là một hình thức kinh doanh ở mức cơ bản nhất, đơn giản nhất, thuận tiện nhất, chi phí thấp nhất với các quy định pháp lý ở mức rất đơn giản nhất có thể. Tư duy về cách ứng xử này sẽ là nền tảng cho các cải cách về đăng ký kinh doanh, chế độ thuế, quản lý thuế, chế độ kế toán, báo cáo tài chính, bảo hiểm xã hội, phá sản, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ… áp dụng với hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh.
Về hình thức, các nước không có hộ kinh doanh, mà thay vào đó là sự phổ biến của hình thức kinh doanh cá thể (sole proprietorship). Tại hầu hết các quốc gia, các hình thức kinh doanh, doanh nghiệp được tổ chức dưới các hình thức cơ bản như: cá nhân kinh doanh (sole proprietorship hay sole trader); loại hình hợp danh (partnership) và công ty TNHH/công ty cổ phần (corporation). Trên cơ sở 3 hình thức cơ bản trên, các cơ sở kinh doanh có thể được chia thành các loại hình cụ thể hơn như: cá nhân kinh doanh, hợp danh hữu hạn; trách nhiệm hữu hạn một thành viên, trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; công ty cổ phần.
Cục Quản lý Đăng ký kinh doanh cho biết, đối với hình thức kinh doanh do một cá nhân làm chủ và vận hành, toàn bộ tài sản của cá nhân đó không tách bạch với hoạt động kinh doanh (sole trader/ sole tradership/sole proprietorship ở các nước như Anh, Mỹ, Úc, entreprise unipersonnel ở Pháp, hay einzelunternehmen ở Đức). Hình thức này rất tương đồng với hình thức hộ kinh doanh tại Việt Nam với một số đặc điểm chính: do một cá nhân làm chủ, việc thành lập tương đối đơn giản; chủ sở hữu chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình (trách nhiệm vô hạn) đối với hoạt động kinh doanh; lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh được tính vào thu nhập chịu thuế cá nhân của chủ sở hữu.
Theo khuyến nghị của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, từ kinh nghiệm quốc tế đối chiếu với thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, cần nghiên cứu để làm rõ phạm vi các nhóm đối tượng kinh doanh cá thể tại Việt Nam (ngoài hộ kinh doanh còn có cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân với bản chất tương tự doanh nghiệp cá thể…); đánh giá cơ sở, sự cần thiết phải xây dựng khung pháp lý đơn giản, thuận tiện, chi phí tuân thủ thấp cho mô hình kinh doanh cá thể, trong đó có cá nhân kinh doanh, người kinh doanh trực tuyến, người lao động chuyên môn và tự do như freelancers, nghệ sỹ… Những đối tượng này cũng rất cần những quy định rõ ràng, đơn giản, thuận tiện và chi phí thấp để tham gia khu vực kinh tế chính thức
Kinh nghiệm quốc tế trong quy định về đăng ký kinh doanh đối với cá nhân kinh doanh
Theo nghiên cứu của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, một số kinh nghiệm về quy định đăng ký kinh doanh đối với cá nhân kinh doanh tại các quốc gia điển hình có thể tham khảo như sau:
Tại Úc, pháp luật không quy định về hộ kinh doanh. Theo pháp luật của Úc, nếu không thành lập công ty, cá nhân có thể đăng ký thành lập “sole trader”, tạm dịch là cá nhân kinh doanh (độc lập). Cá nhân tự kinh doanh với doanh thu trên 75.000 AUD phải đăng ký với Cơ quan đăng ký kinh doanh (Australian Business Register) và lấy đăng ký mã số kinh doanh (ABN). Trước đó, cá nhân phải có mã số thuế (tax file number) để nộp thuế thu nhập cá nhân. Thu nhập của sole trader chính là thu nhập cá nhân người đó phải kê khai và nộp. ABN được sử dụng trong các giao dịch của sole trader với các tổ chức, cá nhân khác, bao gồm việc sử dụng lao động. Lợi ích của đăng ký làm sole trader với mã số ABN là thương hiệu được bảo vệ và không bị đối tác tạm khấu trừ thuế thu nhập.
Tại Vương quốc Anh không có quy định về hộ kinh doanh. Cá nhân tự kinh doanh có thu nhập từ 1.000 Bảng/năm trở lên phải đăng ký kinh doanh dạng tự làm chủ (self-employed) với Cơ quan thuế (HMRC) mặc dù cá nhân có thể có công việc làm thuê. Nếu cá nhân kinh doanh hoặc cho thuê nhà với thu nhập dưới mức phải nộp thuế (12.500 Bảng/năm) không cần phải đăng ký kinh doanh. Cá nhân kinh doanh có thể lựa chọn hình thức pháp lý là sole trader (phổ biến nhất) hoặc hợp danh nếu làm cùng cá nhân khác.
Tương tự, Hoa Kỳ không có quy định về hình thức kinh doanh hộ gia đình. Các cá nhân kinh doanh thường đăng ký làm “sole proprietor” hay còn gọi là “sole trader”. Theo Cục doanh nghiệp nhỏ (SBA) Haa Kỳ, năm 2019, Hoa Kỳ có hơn 27 triệu cá nhân kinh doanh không thuê thêm người. Không thấy có quy định nào bắt buộc phải đăng ký kinh doanh khi thu nhập đạt một ngưỡng nhất định như ở Vương quốc Anh. Tùy theo từng bang, nếu cá nhân kinh doanh bằng một thương hiệu hay một tên khác tên mình, cá nhân có thể phải đăng ký. Sole trader ở Hoa Kỳ, ngoài tờ khai thuế thu nhập cá nhân thông thường, có nghĩa vụ kê khai thêm một tờ khai thuế liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình (Schedule C (1040 or 1040-SR), Profit or Loss from Business). Nếu thuê lao động, sole trader cũng phải nộp tờ khai về chi phí lao động.
Ở khu vực châu Á, Singapore là quốc gia quy định cá nhân kinh doanh thường xuyên vì mục đích lợi nhuận phải đăng ký kinh doanh. Singapore quy định năm hình thức pháp lý của đơn vị kinh doanh, gồm: cá nhân kinh doanh (sole proprietor), hợp danh, hợp danh hạn chế, hợp danh trách nhiệm hữu hạn và công ty. Người nước ngoài muốn đăng ký sole prorietor phải có đại diện địa phương và có đại lý nộp hồ sơ đã được đăng ký. Theo quy định của Cơ quan đăng ký kinh doanh nước này, cá nhân kinh doanh bằng tên ghi trên căn cước công dân không bắt buộc phải đăng ký kinh doanh. Họ có thể lựa chọn đăng ký để được hưởng nhiều lợi ích mà pháp luật quy định, ví dụ như tham gia đấu thầu hợp đồng cung cấp cho cơ quan nhà nước, hỗ trợ tài chính và uy tín thị trường.
Trong khi đó, Trung Quốc đã ban hành một luật riêng cho các cá nhân kinh doanh với tên Luật Doanh nghiệp Cá thể (Sole Proprietorship Enterprise Law) và có hiệu lực từ ngày 01/01/2020. Luật này gồm 6 chương, 48 điều. Một số điểm đáng chú ý của Luật Doanh nghiệp Cá thể đó là xác định doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ, chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ của doanh nghiệp, có thể dùng địa chỉ nhà làm địa chỉ đăng ký kinh doanh, chủ doanh nghiệp có thể ký kết hợp đồng lao động khi sử dụng lao động và có trách nhiệm tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động. Chế độ thuế áp dụng đối với doanh nghiệp cá thể là thuế cá nhân.
Còn tại Thái Lan, cá nhân kinh doanh hay doanh nghiệp cá thể là một hình thức kinh doanh quy định chung theo Luật Dân sự và Thương mại. Dù được quy định trong văn bản pháp luật nào, cá nhân kinh doanh hay doanh nghiêp cá thể đều là hình thức đơn giản nhất, có chi phí thấp nhất, tiện lợi nhất để tiến hành kinh doanh, và có các quy định đơn giản nhất về đăng ký, thủ tục thuế, báo cáo tài chính và các nghĩa vụ báo cáo khác. Chế độ thuế được áp dụng với các cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp một chủ (sole proprietorship) là thuế cá nhân.
Chính vì vậy, hình thức cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp một chủ trở nên vô cùng phổ biến ở nhiều nền kinh tế. Ví dụ trong khu vực Đông Nam Á, tính đến tháng 3/2023, toàn đảo quốc Singapore có 575.527 doanh nghiệp và công ty. Trong số đó, có 144,234 (25%) là cá nhân kinh doanh, doanh nghiệp cá thể hay doanh nghiệp một chủ. Tại Malaysia, trong số 907.065 doanh nghiệp đăng ký tại quốc gia này, thì có 554.900 doanh nghiệp, hay 61,2% là dưới hình thức doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ (SMECorp Malaysia, 2017).
Tại Liên minh châu Âu (EU), trong số 2,3 triệu doanh nghiệp được thành lập trong năm 2012, 1,6 triệu, hay 70% được đăng ký dưới hình thức doanh nghiệp cá thể (hay doanh nghiệp một chủ) hay cụ thể là hình thức doanh nghiệp tư nhân theo tên gọi đối với loại hình doanh nghiệp này tại Việt Nam. Tỷ lệ này đặc biệt cao tại một số quốc gia, ví dụ như tại Pháp là 92,3%, Ba Lan 86,9%, Hà Lan 86,4%, và Cộng hòa Séc là 86,1% (EuroStat, 2013). Tại Hungary, trong số 450.733 doanh nghiệp đang hoạt động có tới 53% là dưới hình thức doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ (OECD, 2016). 73% doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ là dưới hình thức doanh nghiệp cá thể/doanh nghiệp một chủ (US Small Business Administration, 2013)./.
Bình luận