An toàn ngân sách được đảm bảo

Để tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, thu hút nhiều hơn vốn đầu tư, đồng thời góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng thấp, chính sách thu NSNN trong 5 năm qua đã điều chỉnh lại theo hướng giảm động viên, thực hiện miễn, giảm, giãn các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản thu NSNN. Mặc dù vậy, quy mô thu NSNN giai đoạn 2011-2015 vẫn tăng trưởng khá, bằng gần 2 lần giai đoạn 2006-2010 và hơn 5 lần giai đoạn 2001-2005.

Cơ cấu thu đã có chuyển biến tích cực, tỷ trọng thu nội địa bình quân giai đoạn đã tăng từ 58,9% (giai đoạn 2006-2010) lên khoảng 68% (giai đoạn 2011-2015). Đến năm 2015, thu nội địa chiếm 74% tổng thu NSNN, cao hơn kế hoạch đề ra (là 70%). Tỷ lệ huy động từ thuế, phí vào NSNN bình quân khoảng 21% GDP, khá sát với kế hoạch đề ra (không quá 22%-23%), xấp xỉ mức động viên của giai đoạn 2001-2005 (khoảng 22% GDP) và thấp hơn giai đoạn 2006-2010 (24,8% GDP).

Chi NSNN đã bám sát định hướng kế hoạch 5 năm, tập trung nhiều hơn cho thực hiện chính sách tiền lương và an sinh xã hội. Điều hành chi được thực hiện chặt chẽ, triệt để tiết kiệm; cắt giảm các khoản chi đã bố trí dự toán, nhưng chưa triển khai hoặc phân bổ sai mục tiêu, đối tượng; hạn chế bổ sung ngoài dự toán; quản lý chặt chẽ nguồn dự phòng NSNN; cắt giảm, hoặc lùi thời gian thực hiện các nhiệm vụ chi chưa thật sự cấp thiết; cắt giảm tối đa và công khai các khoản chi khánh tiết, hội nghị, hội thảo, đi công tác nước ngoài, mua sắm trang thiết bị, xe ô tô...; thực hiện các giải pháp tiết kiệm 10% dự toán chi thường xuyên...

Giai đoạn 2011-2015, tỷ trọng huy động ngân sách từ nền kinh tế có xu hướng giảm, trong khi phải chịu sức ép lớn trong bố trí chi NSNN, chi trả nợ tăng nhanh, khiến bội chi NSNN ở mức cao hơn kế hoạch. Tuy nhiên, dư nợ công, dư nợ Chính phủ và dư nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2015 vẫn được giữ trong phạm vi cho phép. Ước tính đến cuối năm 2015, dư nợ công khoảng 61,3% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 48,9% GDP và dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 41,5% GDP, trong giới hạn cho phép (dư nợ công không quá 65% GDP, dư nợ Chính phủ và dư nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50%). Các khoản vay nợ đều được trả đầy đủ, đúng hạn; từng bước cơ cấu lại danh mục nợ, kéo dài thời hạn vay nhằm giảm dần áp lực trả nợ, đảo nợ.

Một yếu tố quan trọng góp phần hoàn thành nhiệm vụ tài chính - NSNN trong giai đoạn qua là công tác thanh tra, kiểm tra tài chính luôn được tăng cường. Trong 5 năm, Thanh tra ngành Tài chính đã tiến hành thực hiện triển khai 310.778 cuộc thanh tra. Từ đó, Ngành đã kiến nghị thu hồi nộp vào NSNN số tiền 73.048.341 triệu đồng; xử phạt vi phạm hành chính 7.527.032 triệu đồng; đã chuyển cơ quan điều tra 852 vụ việc. Qua công tác thanh tra đã kiến nghị xử lý nghiêm các tập thể, cá nhân có sai phạm, khuyết điểm trong quản lý tài chính; kiến nghị sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế, chính sách, góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính, nâng cao hiệu quả quản lý tài chính công.

Cùng với đó, nhờ sự điều hành tốt, thị trường tài chính, bảo hiểm, dịch vụ tài chính tiếp tục phát triển ổn định và tích cực hơn so với giai đoạn trước. Quy mô huy động vốn qua thị trường chứng khoán gấp gần 4 lần so với giai đoạn 2006-2010, chiếm khoảng 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Quy mô và vai trò của thị trường bảo hiểm được nâng cao, tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường giai đoạn 2010-2015, tăng trung bình 17%/năm; năm 2014 đã đạt tổng doanh thu của thị trường bằng khoảng 2,44% GDP, hoàn thành mục tiêu của kế hoạch 2011-2015. Dịch vụ kế toán, kiểm toán, thẩm định giá, tư vấn thuế, đại lý hải quan được hình thành và có những bước phát triển quan trọng.

Tăng cường cải cách, hội nhập sâu với quốc tế

Trong giai đoạn 2011-2015, ngành Tài chính cũng đã có những nỗ lực lớn trong việc quyết liệt cải cách hành chính. Các quy định về thủ tục hành chính và quy trình nghiệp vụ trong từng lĩnh vực (thuế, hải quan, kho bạc nhà nước, quản lý ngân sách…) đã được chuẩn hóa theo hướng hiện đại hóa, giảm chi phí và thời gian thực hiện cho doanh nghiệp, đảm bảo môi trường kinh doanh thông thoáng, lành mạnh. Do vậy, chỉ số cải cách hành chính có sự cải thiện rõ rệt (chỉ số cải cách hành chính của Bộ Tài chính tăng từ vị trí thứ 8 năm 2012 lên vị trí thứ 2 năm 2014).

Cụ thể, đối với lĩnh vực thuế đã tập trung triển khai toàn diện trên nhiều mặt công tác, từ các giải pháp cải cách về chính sách, thủ tục hành chính, quy trình nghiệp vụ quản lý thuế, sắp xếp đào tạo lại đội ngũ cán bộ, đến việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin. Đối với lĩnh vực hải quan, trọng tâm cải cách thủ tục hành chính thể hiện thông qua việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hải quan, triển khai thi hành Luật Hải quan năm 2014; triển khai cơ chế một cửa quốc gia và một cửa ASEAN; triển khai hệ thống thông quan tự động VNACCS/VCIS; thực hiện đề án nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hoá xuất nhập khẩu...

Theo đó, trong giai đoạn 2011-2015, lĩnh vực thuế đã ban hành được 18 quyết định để công bố, sửa đổi, bổ sung, đơn giản hóa 492 thủ tục hành chính thuế, bãi bỏ 113 thủ tục; lĩnh vực hải quan đã có 14 quyết định được ban hành để công bố, sửa đổi, bổ sung 298 thủ tục hành chính và bãi bỏ 42 thủ tục. Đến nay, số giờ kê khai thuế đã giảm được 420 giờ, từ mức 537 giờ/năm xuống còn 117 giờ/năm, giảm được 370 giờ/năm trong năm 2014 và 50 giờ trong năm 2015; giảm thời gian làm thủ tục hải quan, đã rút ngắn xuống bằng mức trung bình của nhóm nước ASEAN-6.

Trong lĩnh vực quản lý ngân quỹ, hệ thống TABMIS đã được hoàn thành triển khai và vận hành để theo dõi, cập nhật đầy đủ, kịp thời tình hình phân bổ dự toán, kiểm soát thu, chi ngân sách và khai thác thông tin báo cáo trên TABMIS. Công tác phối hợp thu NSNN giữa Kho bạc Nhà nước - Tổng cục Thuế - Tổng cục Hải quan và các ngân hàng thương mại đã tổ chức hiệu quả. Qua đó, giúp người nộp thuế có thể tiếp cận được các dịch vụ thu nộp NSNN văn minh, hiện đại, đồng thời hạn chế thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế quốc dân.

Hội nhập và hợp tác tài chính quốc tế được tăng cường và củng cố trong giai đoạn 2011-2015. Ngành Tài chính đã tích cực rà soát việc triển khai thực thi các cam kết về cắt giảm hàng rào thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ, đặc biệt là các cam kết trong WTO và trong 08 Hiệp định thương mại tự do (Hiệp định ATIGA; Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA); ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA); ASEAN - Nhật Bản (AJCEP); ASEAN - Úc - Niu Di-lân (AANZFTA); ASEAN - Ấn Độ (AIFTA); Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA); Việt Nam - Chi lê (VCFTA)).

Thực hiện chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, ngành Tài chính đã chủ động xây dựng phương án và kết thúc đàm phán một số Hiệp định quan trọng, như: Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP); Hiệp định thương mại Việt Nam - Hàn Quốc, Việt Nam - EU, Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu. Bên cạnh đó, tiếp tục triển khai nhiệm vụ đàm phán với một số đối tác khác trong thời gian tới, như: Hiệp định kinh tế toàn diện khu vực (RCEP); FTA với bốn nước Bắc Âu (EFTA).

Ngành Tài chính cũng đã tham gia tích cực vào các hoạt động hợp tác tài chính trong khuôn khổ các diễn đàn hợp tác khu vực và quốc tế như ASEAN, ASEAN+3, APEC, ASEM, APEC, EAS và G20. Đồng thời, đã tham gia thực hiện một số nghiên cứu về phát triển khu vực tài chính. Đối với từng lĩnh vực cụ thể, hợp tác quốc tế cũng không ngừng được đẩy mạnh trên cả cấp độ tiểu khu vực, khu vực và thế giới, như các hoạt động hợp tác về thuế, hải quan; tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, kho bạc, thẩm định giá...

Nhiệm vụ cho giai đoạn 2016-2020

Bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của thế giới và Việt Nam trong giai đoạn tới còn nhiều diễn biến khó lường, với những thuận lợi và khó khăn đan xen, ngành Tài chính xác định mục tiêu trong giai đoạn 2016-2020: Huy động, phân phối, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính trong xã hội hiệu quả, công bằng theo các yêu cầu và định hướng phát triển kinh tế - xã hội đất nước; Từng bước cơ cấu lại NSNN, tiếp tục ưu tiên đầu tư hợp lý cho con người và giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh; Đẩy mạnh cải cách hành chính và tăng cường công tác quản lý, giám sát tài chính, đảm bảo an toàn nợ công.

Theo đó, ngành Tài chính đặt ra cho mình những nhiệm vụ sau:

Một là, động viên hợp lý nguồn lực vào NSNN, đồng thời đảm bảo Nhà nước có đủ nguồn lực cần thiết dành cho chi tiêu thường xuyên và có tích lũy cho đầu tư phát triển. Phấn đấu tỷ lệ huy động vào NSNN trên GDP bình quân khoảng 20%-21% GDP, trong đó từ thuế, phí khoảng 19%-20% GDP. Nâng dần tỷ trọng thu nội địa đến năm 2020 đạt trên 80% tổng thu NSNN.

Hai là, đẩy mạnh cơ cấu lại chi NSNN hướng tới hiệu quả, bên vững. Giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên; tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển, tăng chi trả nợ, giảm số vay đảo nợ. Trên cơ sở đó, phấn đấu đến năm 2020 tỷ trọng chi đầu tư phát triển chiếm trong tổng chi NSNN đạt khoảng 19%-20%, tỷ trọng chi thường xuyên giảm xuống khoảng 58%.

Ba là, đảm bảo an ninh, an toàn tài chính quốc gia, giảm dần tỷ lệ bội chi NSNN. Trên cơ sở đó, bội chi NSNN bình quân giai đoạn khoảng 4% GDP (tính theo quy định của Luật NSNN năm 2015). Duy trì dư nợ Chính phủ và nợ quốc gia trong giới hạn quy định, dư nợ công không quá 65% GDP, dư nợ của Chính phủ không quá 55% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP; tăng cường dự trữ Nhà nước, đáp ứng kịp thời các nhu cầu đột xuất của nền kinh tế.

Bốn là, tập trung phát triển thị trường chứng khoán ổn định, hoạt động hiệu quả, vận hành an toàn, trong đó quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt khoảng 70% GDP vào năm 2020; dư nợ thị trường trái phiếu đạt 38% GDP vào năm 2020. Thị trường bảo hiểm phát triển lành mạnh, ổn định, tổng doanh thu ngành bảo hiểm đạt 3%-4% GDP vào năm 2020.

Năm là, thể chế tài chính đảm bảo tính đồng bộ, phù hợp với nguyên tắc và quy luật của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính.

Sáu là, đến hết năm 2018 cơ bản hoàn thành quá trình sắp xếp, tái cơ cấu và cổ phần hóa các DNNN. Sử dụng một phần nguồn thu từ sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp cho đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, y tế, giáo dục...

Một số giải pháp

Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, ngành Tài chính cần triển khai thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả, cụ thể:

Thứ nhất, cần tiếp tục rà soát để có những điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung phù hợp nhằm đảm bảo bao quát các nguồn thu, đối tượng thu, phù hợp với cam kết hội nhập quốc tế, giảm thiểu rủi ro do tác động của môi trường bên ngoài, tạo điều kiện để phát triển sản xuất, kinh doanh, đảm bảo nguồn thu cho NSNN.

Thứ hai, đổi mới chính sách phân phối tài chính thông qua lập và thực hiện kế hoạch tài chính - NSNN trung hạn. Chỉ ban hành các chính sách làm tăng chi NSNN khi thật sự cần thiết và có nguồn kinh phí đảm bảo. Đồng thời, thúc đẩy mạnh mẽ các hình thức đầu tư ngoài NSNN. Thực hiện tiết kiệm triệt để chi thường xuyên, giảm áp lực bố trí chi từ NSNN. Kiểm soát chặt chẽ việc ứng trước dự toán, chi chuyển nguồn, chi từ nguồn dự phòng NSNN theo quy định của Luật NSNN năm 2015. Quản lý chặt chẽ vay và trả nợ, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

Thứ ba, đối với quản lý nợ công, cơ cấu lại các khoản vay của NSNN theo hướng tăng tỷ trọng vay trung hạn và dài hạn với lãi suất phù hợp, triển khai có hiệu quả các nghiệp vụ quản lý và xử lý rủi ro đối với danh mục nợ công. Thực hiện phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế để cơ cấu lại nợ trong nước của Chính phủ. Nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản vay của Chính phủ và kiểm soát chặt chẽ các khoản bảo lãnh Chính phủ, các khoản nợ của chính quyền địa phương, nợ xây dựng cơ bản, bảo đảm dư nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn quy định.

Thứ tư, thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính - NSNN, tăng cường kiểm tra, giám sát và công khai, minh bạch việc sử dụng NSNN, nhất là trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục tổ chức thực hiện đồng bộ, hiệu quả Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, đặc biệt là trong hệ thống các cơ quan thuế, hải quan, kho bạc nhà nước. Nâng cao năng lực và trách nhiệm của cán bộ công chức nói chung và năng lực phân tích, dự báo nói riêng để đảm bảo sự chủ động, kịp thời xử lý những vấn đề đột biến phát sinh, cũng như xây dựng các định hướng chính sách có tính chất đón đầu phù hợp với tình hình trong và ngoài nước, góp phần cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia. Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng thực hiện dịch vụ công trực tuyến với mức độ cao trên môi trường mạng; tăng cường tính công khai, minh bạch, kỷ luật tài chính, đảm bảo sự giám sát của xã hội trong lĩnh vực tài chính - ngân sách theo quy định của Luật NSNN năm 2015./.

Huỳnh Quang Hải
Thứ trưởng Bộ Tài chính

(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 3/2016)