IFRS VÀ CÁC TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC KHI ÁP DỤNG IFRS Ở CÁC DN

Về IFRS

IFRS là bộ chuẩn mực kế toán được thiết kế và phát triển bởi một tổ chức độc lập, phi lợi nhuận gọi là Hội đồng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB). Mục tiêu của IFRS là cung cấp một khuôn khổ quốc tế về cách lập và trình bày báo cáo tài chính cho các công ty đại chúng. IFRS tập trung vào các hướng dẫn, diễn giải chung nhất về cách lập báo cáo tài chính hơn là thiết lập các quy tắc lập báo cáo ngành cụ thể. IFRS cũng cung cấp cho các nhà đầu tư và các kiểm toán viên bức tranh toàn cảnh, rõ ràng về tài chính…

Trước những lợi ích mà IFRS mang lại, các tổ chức có tác động quan trọng đến nền kinh tế thế giới, như: Ngân hàng Thế giới (World Bank), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và một số tổ chức khác đều ủng hộ, hỗ trợ việc áp dụng IFRS trên toàn cầu. Xu thế của hội nhập đòi hỏi các nước cũng như Việt Nam cần có phương án và xây dựng lộ trình áp dụng hệ thống IFRS. Ngày 16/3/2020, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 345/QĐ-BTC phê duyệt Đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính tại Việt Nam. Theo đó, việc áp dụng IFRS được triển khai theo 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 từ năm 2020 đến năm 2021; Giai đoạn 2 áp dụng tự nguyện từ năm 2022 đến năm 2025; Giai đoạn 3 áp dụng bắt buộc với một số đối tượng từ sau năm 2025.

Áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
IFRS cung cấp cho các nhà đầu tư và các kiểm toán viên bức tranh toàn cảnh, rõ ràng về tài chính…

Tác động tích cực của việc áp dụng IFRS đối với DN

Thông qua áp dụng IFRS, nền kinh tế Việt Nam nói chung và DN Việt Nam nói riêng sẽ được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế, như: tiếp cận nguồn vốn, duy trì năng lực cạnh tranh và phát triển một cách bền vững, phát triển đội ngũ nhân sự kiểm toán...

Theo Đoàn Thị Thảo Uyên (2020), IFRS được ví như “ngôn ngữ tài chính toàn cầu” giúp đảm bảo tính so sánh, thống nhất và minh bạch, giúp DN tận dụng cơ hội tiếp cận nguồn vốn từ nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các loại báo cáo hợp nhất áp dụng cho các công ty đa quốc gia với công ty con là DN Việt Nam, việc hoà hợp IFRS giúp cho việc hội nhập càng trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn bao giờ hết. Khi tiến hành giao thương, các DN Việt Nam dùng chung một ngôn ngữ chuẩn về kế toán với các DN trên thế giới sẽ mang lại nhiều thuận lợi hơn trong công tác hạch toán ghi nhận các nghiệp vụ. Hiểu biết về IFRS sẽ giúp DN có những thông tin hữu ích về các DN khác trong cùng ngành, có mức độ hoạt động tương đương ở các nước khác.

Riêng đối với DN vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà công ty mẹ sử dụng IFRS, thì việc áp dụng IFRS là một yêu cầu bắt buộc nhằm phục vụ cho việc hợp nhất báo cáo ở công ty mẹ. Thông qua áp dụng IFRS, các DN ở Việt Nam có thể được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế, như: được tiếp cận nguồn vốn, duy trì năng lực cạnh tranh và phát triển một cách bền vững… Điều này củng cố sự ổn định của nền kinh tế Việt Nam.

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA KHI ÁP DỤNG IFRS Ở CÁC DN VIỆT NAM

Một là, chuyển đổi từ Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) sang IFRS có ảnh hưởng tới mọi mặt hoạt động của DN. Tại Việt Nam hiện nay, báo cáo tài chính của các DN đang được áp dụng theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) được Bộ Tài chính ban hành thành 5 đợt từ năm 2001 đến năm 2005 với 26 chuẩn mực. Trong khi đó, IFRS bao gồm hơn 40 chuẩn mực, trong đó có một số chuẩn mực mới được ban hành và áp dụng trong một vài năm gần đây, như: IFRS 9 – Công cụ tài chính, IFRS 15 - Doanh thu từ các hợp đồng khách hàng, IFRS 16 – Thuê tài sản, trong khi 26 Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) hiện nay được soạn thảo và ban hành trong giai đoạn 2001-2005.

Do vậy, đang có một sự khác biệt rất lớn giữa VAS và IFRS. Theo một số khảo sát về việc chuyển đổi sang IFRS ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhiều DN đã bị thất bại hoặc gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn chuyển đổi, mà một trong các nguyên nhân chính là vì lãnh đạo của các DN đó suy nghĩ rất đơn giản là chuyển đổi sang IFRS chỉ là việc thay đổi chính sách kế toán và là trách nhiệm của bộ phận kế toán (Daske, H. et al, 2008; Li, S., 2010). Tuy nhiên, trên thực tế, IFRS cần rất nhiều sự thay đổi của DN và đòi hỏi phải có sự hiểu biết và hợp tác của nhiều bộ phận khác nhau trong DN.

Sau khi xác định được những khác biệt trọng yếu giữa VAS và IFRS, DN sẽ phải đánh giá ảnh hưởng của những khác biệt này có liên quan đến quy trình kinh doanh nào để có thể đề ra những yêu cầu cụ thể cho các phòng, ban liên quan. Ví dụ: phòng kế toán cần xác định những thông tin nào cần phải có để phục vụ cho công tác hạch toán kế toán IFRS mà hiện thời hệ thống báo cáo theo VAS chưa có và phối hợp với phòng bán hàng và pháp chế rà soát và sửa đổi các điều khoản của hợp đồng bán hàng, mua hàng, hợp đồng vay, thuê tài sản…, sau đó làm việc với bộ phận công nghệ thông tin để tiến hành sửa đổi, cập nhật các trường dữ liệu, thông tin mới trong hệ thống công nghệ thông tin của DN để có thể cung cấp đầy đủ dữ liệu cho công tác hạch toán kế toán theo IFRS.

Hai là, thách thức về nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực ở đây không chỉ giới hạn ở đội ngũ các nhân viên kế toán của các DN là đối tượng áp dụng IFRS, mà bao gồm cả lãnh đạo của các công ty này, vì họ là người chịu trách nhiệm phê duyệt báo cáo tài chính.

Các DN áp dụng IFRS sẽ phải thành lập một nhóm dự án triển khai IFRS riêng biệt, bao gồm những nhân viên được đào tạo chuyên sâu về IFRS vì sẽ rất khó khăn cho đội ngũ kế toán hiện thời của các DN áp dụng IFRS vừa phải thực hiện công tác kế toán theo VAS (trong giai đoạn chuyển đổi) vừa phải đi đào tạo về IFRS để có thể hạch toán kế toán và trình bày báo cáo theo IFRS. Ngoài ra, các nhân sự được giao triển khai IFRS cũng cần phải đạt được một trình độ tiếng Anh khá cao để có thể tự mình nghiên cứu các quy định và diễn giải của IFRS trong trường hợp các hướng dẫn IFRS bằng tiếng Việt chưa được ban hành một cách đầy đủ.

Ngoài ra, theo Quyết định số 345/QĐ-BTC, các DN áp dụng IFRS sẽ thực hiện lập báo cáo tài chính hợp nhất theo IFRS, điều này có nghĩa là các công ty con, công ty liên kết của họ cũng sẽ phải lập các bộ báo cáo thông tin tài chính cho mục đích lập báo cáo tài chính hợp nhất của công ty mẹ theo IFRS. Do vậy, các công ty con, công ty liên kết này cũng cần phải tuyển dụng và đào tạo các cán bộ kế toán có khả năng lập các bộ thông tin tài chính cho mục đích hợp nhất theo IFRS.

Trong khi đó, thực tế hiện nay, rào cản ngôn ngữ tiếng Anh và các thuật ngữ khó hiểu mang tính học thuật, ước lệ của từ vựng chuyên ngành kế toán gây ra không ít khó khăn cho các kế toán viên, bởi vì hiện nay nhìn chung đội ngũ kế toán viên nước ta đang thiếu nguồn nhân lực trình độ cao. Ngoài ra, về vấn đề đào tạo, mới chỉ có một vài trường đại học lớn trong cả nước đã mạnh dạn triển khai dạy các khoá về kế toán quốc tế theo nội dung của IFRS…

Ba là, thách thức về hệ thống công nghệ thông tin. Để có thể lập báo cáo tài chính theo IFRS, tối thiểu ở cấp độ công ty mẹ, các DN áp dụng IFRS sẽ phải thiết lập và duy trì một hệ thống phần mềm và sổ sách kế toán theo IFRS. Khó khăn đối với Việt Nam là trong giai đoạn đầu, các DN sẽ tiếp tục lập báo cáo tài chính riêng theo VAS và chỉ thực hiện lập báo cáo tài chính hợp nhất theo IFRS, điều đó có nghĩa là các DN sẽ phải duy trì song song 2 hệ thống tài khoản kế toán, sổ sách kế toán riêng biệt theo VAS và IFRS.

Bốn là, ảnh hưởng tiêu cực đến báo cáo tài chính khi áp dụng IFRS lần đầu tiên. Theo tác giả, khi lập báo cáo tài chính năm đầu tiên theo IFRS, nhiều DN sẽ phải đối mặt với những ảnh hưởng tiêu cực đến báo cáo tài chính do có sự khác biệt lớn giữa VAS hiện tại và IFRS, cụ thể như sau:

- Tổn thất tài sản: Theo quy định của Chuẩn mực kế toán quốc tế số 36 (IAS 36) – Tổn thất tài sản, nếu giá trị ghi sổ của tài sản của một DN cao hơn giá trị có thể thu hồi của tài sản đó thì DN phải ghi nhận khoản Dự phòng tổn thất tài sản ngay vào báo cáo thu nhập toàn diện trong kỳ. Ở Việt Nam hiện nay chưa có Chuẩn mực kế toán tương đương với IAS 36. Vì vậy, đây sẽ là một chuẩn mực có thể có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với báo cáo tài chính IFRS lần đầu tiên của những DN làm ăn thua lỗ hoặc có các công ty con hoặc bộ phận hoạt động thua lỗ, những dấu hiệu cho thấy là tài sản của họ có thể bị tổn thất.

- Thuê tài sản: Theo quy định của VAS 06 – Thuê tài sản, các tài sản thuê hoạt động không được ghi nhận tên bảng cân đối kế toán. Còn theo quy định của IFRS 16 – Thuê tài sản, thì các khoản thuê hoạt động sẽ được ghi nhận ngay trên báo cáo tình hình tài chính của DN như là Quyền sử dụng tài sản và Nợ thuê phải trả. Đối với những DN có các tài sản thuê hoạt động với các bên cho thuê ở nước ngoài, khoản nợ thuê phải trả sẽ được coi là một khoản nợ tài chính có gốc bằng ngoại tệ và theo quy định về báo cáo tài chính, khoản nợ tài chính có gốc bằng ngoại tệ này sẽ phải được đánh giá lại theo tỷ giá thực tế tại DN lập báo cáo tài chính. Ví dụ đối với những DN hoạt động trong lĩnh vực hàng không, việc áp dụng IFRS 16 sẽ có ảnh hưởng rất lớn vì phần nhiều máy bay trong đội tàu bay của họ đều là các máy bay thuê hoạt động với tiền thuê phải trả bằng ngoại tệ.

- Do các DN sẽ lập báo cáo tài chính riêng theo VAS, còn báo cáo tài chính hợp nhất theo IFRS, sẽ có tình huống xảy ra là báo cáo riêng theo VAS thì DN có lãi, còn báo cáo hợp nhất theo IFRS sẽ bị lỗ và DN sẽ không thể phân chia lợi nhuận cho các cổ đông, bởi vì theo quy định của Việt Nam, phần lợi nhuận sau thuế dùng để chia cổ tức sẽ được tính trên số nhỏ hơn giữa báo cáo tài chính riêng và báo cáo tài chính hợp nhất.

Năm là, cần thời gian dài để chuẩn bị cho việc áp dụng IFRS lần đầu tiên. Theo Quyết định số 345/QĐ-BTC thì Giai đoạn chuẩn bị sẽ diễn ra từ năm 2020 đến hết năm 2021, sau đó Giai đoạn áp dụng tự nguyện từ năm 2022 đến hết năm 2025. Có thể hiểu là, Giai đoạn chuẩn bị là thời gian để Bộ Tài chính tiến hành biên soạn và đưa ra hướng dẫn về IFRS bằng tiếng Việt và chưa bao gồm thời gian để cho các DN tìm hiểu về IFRS, tuyển dụng và đào tạo nhân sự về IFRS. Theo tác giả, các DN triển khai áp dụng IFRS lần đầu tiên sẽ phải mất ít nhất 2-3 năm cho công tác đào tạo và chuẩn bị số liệu cho báo cáo tài chính lập theo IFRS lần đầu tiên.

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT

Để áp dụng thành công và hiệu quả IFRS ở các DN Việt Nam hiện nay, theo tác giả, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Về phía các cơ quan quản lý nhà nước

Thứ nhất, sớm ban hành hệ thống chính sách hướng dẫn công tác lập BCTC theo IFRS.

Thứ hai, sớm đánh giá, sửa đổi, bổ sung cập nhật 26 Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) đã ban hành cho phù hợp với những thay đổi của IAS/IFRS và thực tiễn hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Đồng thời, từng bước tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh tế và luật pháp phù hợp với yêu cầu của IAS/IFRS. Ví dụ như: thị trường giao dịch tài sản cần phải “minh bạch” và “hoạt động” để có thể sử dụng giá trị hợp lý làm cơ sở đo lường giá trị tài sản…

Thứ ba, nhằm đáp ứng kịp thời sự đổi mới và phát triển của nền kinh tế, cần sớm ban hành 5 chuẩn mực kế toán liên quan đến các đối tượng và giao dịch đã phát sinh trong đời sống kinh tế, bao gồm: Thanh toán bằng cổ phiếu (IFRS 02); Tìm kiếm, thăm dò và xác định giá trị các nguồn tài nguyên khoáng sản (IFRS 06); Công cụ tài chính (IFRS 7; IFRS 9); Các khoản tài trợ của Chính phủ (IAS 20): Tổn thất tài sản (IAS 36). Một số chuẩn mực cũng cần có bước chuẩn bị để ban hành trong thời gian tiếp theo, như: Tài sản nắm giữ để bán và hoạt động kinh doanh không liên tục; Phúc lợi của nhân viên; Nông nghiệp…

Thứ tư, khuyến khích các DN, tổ chức nghiên cứu và áp dụng IFRS: Để tăng cường áp dụng IFRS ở Việt Nam, các cơ quan quản lý nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các DN, tổ chức nghiên cứu và áp dụng IFRS. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cần phối kết hợp với các đơn vị tổ chức nhiều chương trình tập huấn, hướng dẫn các DN và tiến hành áp dụng IFRS vào quá trình lập báo cáo tài chính; Tăng cường đối thoại với các DN để khuyến khích chuyển sang áp dụng IFRS. Bên cạnh đó, đẩy mạnh các hỗ trợ kỹ thuật cần thiết để giúp DN nhanh chóng chuyển đổi sang áp dụng IFRS; đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến IFRS để xã hội hiểu về nội dung, nhận thức được lợi ích của việc áp dụng IFRS.

Đồng thời, Bộ Tài chính cần làm tốt công tác phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát, ban hành lại, hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành lại các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính theo hướng giảm thiểu sự khác biệt giữa các văn bản; xác định và phân biệt rõ phạm vi áp dụng chuẩn mực kế toán, chính sách thuế và cơ chế tài chính, tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật của DN, cũng như nâng cao chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính để cung cấp ra công chúng. Bên cạnh đó, nâng cao trình độ của các đối tượng liên quan, bao gồm các quy định về chất lượng đối tượng hành nghề, việc đào tạo trong quá trình làm việc, các quy định kiểm soát chất lượng kế toán.

Về phía các cơ sở đào tạo

– IFRS cần được đưa vào chương trình giảng dạy tại hệ thống các cơ sở đào tạo nghề nghiệp, ít nhất là trong các trường đào tạo chuyên ngành kế toán, kiểm toán khối đại học. Công tác này cần được chuẩn bị bài bản từ các khâu viết giáo trình, tài liệu học tập, tài liệu tham khảo, môn học giảng dạy trong chương trình đào tạo chuyên ngành.

- Tổ chức các cuộc hội thảo chuyên môn, nhằm thực hiện các trao đổi kiến thức, nâng cao kinh nghiệm giảng dạy IFRS cho các giảng viên đảm bảo công tác đào tạo IFRS có chất lượng cao. Việc này nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực kế cận có kiến thức chuyên môn sâu về IFRS, để tham gia làm việc tại các DN trong tương lai trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.

Về phía các hiệp hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán

Các hiệp hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán cần nâng cao vai trò của mình trong việc đào tạo, giảng dạy, tập huấn, phổ biến kiến thức của IFRS cho đội ngũ nhân lực trong ngành, hỗ trợ kỹ thuật cho các DN áp dụng. Các cơ quan ban ngành như Bộ Tài chính, các hiệp hội nghề nghiệp kế toán – kiểm toán, các tổ chức quốc tế cần tích cực hỗ trợ tư vấn cho các DN trong quá trình áp dụng IFRS.

Về phía các DN

- Cần nhận thức đúng đắn về lợi ích dài hạn của việc áp dụng IFRS.

- Xác định mục tiêu, nhu cầu và kế hoạch áp dụng. Cụ thể là căn cứ vào nội dung, đối tượng của Đề án áp dụng IFRS tại Việt Nam để chủ động xây dựng kế hoạch chi tiết và tổ chức thực hiện phù hợp với lộ trình áp dụng IFRS.

- Cần xây dựng kế hoạch tổng thể và triển khai đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu và lộ trình áp dụng IFRS. Kế hoạch cần căn cứ vào các quy định về kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán – kiểm toán cũng như thời gian cập nhật các kiến thức của cơ quan chủ quản./.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Tài chính (2020). Quyết định số 345/QĐ-BTC, ngày 16/3/2020 phê duyệt Đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế tại Việt Nam

2. Đoàn Thị Thảo Uyên (2020). Vận dụng chuẩn mực lập báo cáo tài chính quốc tế để lập báo cáo tài chính tại các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Tài chính, kỳ 2, tháng 11/2020

3. Daske, H., Hail, L., Leuz, C., Verdi, S. (2008). Mandatory IFRS Reporting Around the World: Early Evidence on the Economic Consequences, Journal of Accounting Research, 46(5)

4. Li, S. (2010). Does Mandatory Adoption of International Financial Reporting Standards in the European Union Reduce the Cost of Equity Capital, The Accounting Review, 85(2)

ThS. Phạm Thị Hương

Khoa Tài chính kế toán, Trường Cao đẳng công nghiệp Hưng Yên

(Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 35, tháng 12/2021)