Tóm tắt

Để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu trở thành một nước công nghiệp hiện đại, đáp ứng những yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải có một đội ngũ chuyên gia, đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước giỏi về mọi mặt, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước “vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có “tâm” vừa có “tầm”. Bài viết phân tích kinh nghiệm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước của một số quốc gia có trình độ phát triển cao ở châu Á, qua đó rút ra một số bài học có thể tham khảo trong nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay.

Từ khóa: kinh nghiệm châu Á, chất lượng cán bộ, quản lý nhà nước

Summary

This paper analyzes experiences on improving the quality of cadres and civil servants in charge of state management from a number of highly developed countries in Asia, thereby drawing a number of lessons for Vietnam in improving the quality of cadres and civil servants in charge of state management.

Keywords: experience from Asia, quality of officials, state management

Giới thiệu

Hiện nay, Việt Nam đã và đang bước vào giai đoạn đẩy nhanh cùng với việc tăng tốc tiến trình phát triển kinh tế, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu trở thành một nước công nghiệp hiện đại, đáp ứng những yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Để đáp ứng tiến trình phát triển này, đòi hỏi đất nước nói chung và các địa phương nói riêng phải có một đội ngũ chuyên gia, đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước giỏi về mọi mặt, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước “vừa hồng, vừa chuyên”, vừa có “tâm” vừa có “tầm”. Để thực hiện được nội dung trên một cách có hiệu quả, việc tham khảo các quốc gia đi trước, từ đó rút ra các bài học cho mình là một điều tất yếu.

KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á

Kinh nghiệm Nhật Bản

Trong quá trình cải cách hệ thống hành chính, Chính phủ Nhật Bản rất quan tâm đến cải cách chế độ công vụ, công chức, coi trọng các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, nhất là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế chuyên nghiệp. Một số kinh nghiệm nổi bật trong nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước của Nhật Bản bao gồm các nội dung sau:

Xây dựng chế độ cấp bậc nghiêm túc với nhiều cấp bậc

Tại Nhật Bản, công chức được chia làm hai loại: công chức nhà nước và công chức địa phương. Công chức nhà nước chia thành: công chức chung và công chức đặc biệt. Công chức Nhật Bản là những người được xã hội rất coi trọng, được chế độ Nhà nước rất ưu ái. Vì quan chức Nhật Bản đều là những người ưu tú, được tuyển chọn qua những kỳ thi tuyển nghiêm túc và bằng sự đào tạo, rèn luyện liên tục trên các cương vị khác nhau khi được tuyển dụng.

Theo MURATA Yokuo và cộng sự (2019), hàng năm, Viện nhân sự Nhật Bản (một cơ quan nhà nước độc lập với các bộ) mở 3 kỳ thi: kỳ thi tuyển quan chức Nhà nước loại I (cao cấp), kỳ thi tuyển chọn quan chức Nhà nước loại II và loại III. Những người trúng tuyển công chức loại I sẽ được đào tạo để trở thành cán bộ lãnh đạo trong tương lai. Những người trúng tuyển công chức loại II và loại III hầu hết là những người làm việc chuyên môn, như: kế toán, văn thư...

Để được dự thi tuyển công chức loại I, các thí sinh trước hết phải là người thi đỗ vào những trường đại học lớn, có uy tín và có truyền thống đào tạo nhân tài. để thống nhất mặt bằng chung về chất lượng của đội ngũ công chức nhà nước Nhật Bản, các bộ không được mở kỳ thi riêng từ giai đoạn đầu, mà chỉ được tuyển chọn công chức cho bộ mình trong số những người trúng tuyển tại các kỳ thi hàng năm do Viện nhân sự tổ chức. Các công chức mới được tuyển vào các bộ tiếp tục được đào tạo với các nội dung sau: (i) Đào tạo qua kinh nghiệm làm việc ở nhiều cơ sở khác nhau trong bộ và ngoài bộ; (ii) Đào tạo tại các lớp huấn luyện, bồi dưỡng ở nhiều cấp khác nhau.

Như vậy, sau 5 đến 6 năm được tuyển vào cơ quan, qua các nội dung đào tạo trên, các công chức trẻ của Nhật đã có trình độ lý luận khá cao về kinh tế học và lúc này họ được giao làm trưởng nhóm trong bộ phận. Sau đó được cử xuống cơ sở làm giám đốc để đảm nhiệm trách nhiệm độc lập và xử lý công việc hành chính, phát huy quyền lãnh đạo tại đơn vị cơ sở. Sau một năm, công chức này được đưa trở lại giữ chức phó trưởng phòng và bắt đầu được tham gia quá trình hoạch định các chính sách.

Qua nhiều năm họ sẽ được luân phiên đảm nhiệm các chức vụ phó trưởng phòng khác nhau, các công chức này có điều kiện phát huy khả năng quản lý hành chính, khả năng đối phó nhạy bén với tình hình mới trong nhiều lĩnh vực. Sau đó lại được cử xuống địa phương làm phó trưởng ty của Bộ hoặc ra nước ngoài làm tùy viên hoặc tham tán kinh tế của các đại sứ quán từ 3 đến 4 năm rồi được đưa trở lại Bộ đảm nhiệm chức vụ trưởng phòng 6 năm liên tục. Thời gian làm trưởng phòng cũng được luân phiên thay đổi qua nhiều phòng khác nhau. Tiếp đó lại cử xuống làm Trưởng ty ở địa phương, hầu hết những người trúng tuyển công chức loại I đều giữ chức vụ Trưởng ty. Từ đây, các công chức tiếp tục phấn đấu để được nâng dần lên các chức Phó vụ trưởng, Vụ trưởng. Cuối cùng, những người ưu tú trong số này được chọn lên chức vụ Thứ trưởng (Thứ trưởng là chức vụ cao nhất của công chức, vì Bộ trưởng là những chính trị gia do Thủ tướng bổ nhiệm).

Cải cách hệ thống tuyển dụng

Hàng năm, Cơ quan nhân sự Nhật Bản tổ chức 3 kỳ thi tuyển gồm kỳ thi loại I, loại II, loại III. Những người trúng tuyển kỳ thi loại I sẽ được đào tạo để trở thành những nhà lãnh đạo trong tương lai, họ được lựa chọn nơi làm việc của mình. Những người trúng tuyển kỳ thi loại II, loại III sẽ là những công chức chuyên môn, nghiệp vụ như kế toán, soạn thảo văn bản... Việc tổ chức thi tuyển công chức hành chính ở Trung ương do Cơ quan nhân sự Nhật Bản tổ chức thực hiện hoàn toàn độc lập, không chịu áp lực từ Chính phủ hoặc các bộ, ngành. Sau kỳ thi, các bộ có quyền tuyển chọn công chức cho mình trong số những người trúng tuyển kỳ thi loại I. Kỳ thi tuyển chọn bác sĩ, giảng viên sẽ do Bộ quản lý nhà nước trực tiếp tổ chức thi tuyển. Nhật Bản liên tục nghiên cứu, hoàn thiện, mở rộng khuôn khổ tuyển dụng và cải cách hệ thống tuyển dụng.

Cải cách công tác đánh giá công chức

Khuyến nghị áp dụng chế độ đánh giá nhân sự bao gồm đánh giá năng lực và đánh giá kết quả làm việc. Thường xuyên sát hạch để bổ nhiệm lại đối với công chức lãnh đạo. Định kỳ đánh giá mỗi năm 2 lần và sử dụng kết quả đánh giá công chức làm cơ sở cho việc tăng lương, bổ nhiệm chức vụ và đào tạo, bồi dưỡng.

Cắt giảm số lượng nhân viên

Nhận định khu vực công không có chế độ phá sản như khu vực tư, không có cơ chế tự điều chỉnh như cơ chế thị trường, nhiều cơ quan dễ dàng bị xóa bỏ ở khu vực tư có xu hướng tồn tại trong khu vực công, Chính phủ Nhật Bản thực hiện cơ chế kiểm soát lực lượng nhân sự trong tất cả các cơ quan của bộ máy chính phủ.

Theo đó, mỗi cơ quan được yêu cầu phải cắt giảm (giảm biên chế) một số lượng nhân viên nhất định trong một giai đoạn quy hoạch. Chính phủ nhận định trong bất kỳ cơ quan nào cũng có những hoạt động phải suy giảm do sự thay đổi, phát triển của kinh tế xã hội, khoa học công nghệ và quá trình hợp lý hóa hoạt động quản lý... do đó, cần thiết xác định lĩnh vực suy giảm để giảm biên chế. Số lượng biên chế cắt giảm sẽ được tập hợp về một đơn vị là Ban hạch toán số lượng nhân sự. Những bộ, ngành thực sự cần tăng số lượng nhân sự sẽ được tái phân bổ sau khi cơ quan chức năng xem xét kỹ đề xuất của đơn vị.

Chính phủ Nhật Bản có xu hướng hạn chế ngân sách chi tiêu hàng năm đối với các cơ quan nhà nước, điều đó dẫn đến các bộ phải tự cân đối, hạn chế việc tuyển dụng công chức, đồng thời xây dựng kế hoạch cắt giảm nhân sự. Các bộ, ngành rà soát, nghiên cứu, đánh giá nghiêm túc các hoạt động của mình để xác định từng lĩnh vực, từng khâu cần hợp lý hóa, trên cơ sở đó xác định khâu nào cần cắt giảm nhân lực, khâu nào có thể áp dụng máy móc, công nghệ để đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường hiệu quả công tác quản lý. Năm 1968, để đối phó với tình trạng phát sinh tăng tổ chức bộ máy, Thủ tướng Nhật Bản đã áp dụng biện pháp đặc biệt là ra lệnh cho mỗi Bộ phải giảm một Vụ và biện pháp này đã mang lại hiệu quả.

Nhấn mạnh tác phong, kỷ luật, đạo đức chức nghiệp

Ở Nhật Bản, đạo đức công chức là một nội dung được xem là rất quan trọng trong chất lượng của công chức. Đạo đức ở đây là sự chí công vô tư, thanh liêm và tinh thần trách nhiệm cao. Đây chính là những đức tính cần thiết của một công chức Nhật Bản. Đạo đức này không phải bẩm sinh mà phần lớn được nuôi dưỡng, phát huy bằng những cơ chế, phương pháp quản lý hành chính khách quan, như: chế độ thi tuyển công khai, công bằng và chỉ những người ưu tú mới được tuyển dụng vào làm công chức Nhà nước nên họ được xã hội tôn trọng, tin tưởng, từ đó công chức có niềm tự hào với trọng trách do xã hội giao phó.

Đời sống của công chức nhà nước Nhật Bản được đảm bảo suốt đời qua các chế độ như: nhà ở, lương bổng, hưu trí... Dù trong trường hợp không thăng tiến được nữa hay phải từ chức trước tuổi về hưu, các quan chức Nhật Bản vẫn được Nhà nước có chính sách đãi ngộ thoả đáng, đảm bảo cuộc sống. Số lượng công chức Nhà nước ở Nhật Bản tương đối ít, nên quyền hạn của mỗi công chức tương đối lớn. Như vậy, lợi ích của công chức Nhật Bản là lợi ích trường kỳ vừa bao gồm cả vật chất, uy tín, danh dự..., vừa là những thứ không thể mua được bằng tiền.

Chính điều này đã ngăn cản mọi động cơ tham nhũng của công chức Nhật Bản, vì không có hành vi tham nhũng nào có thể đem lại nhiều lợi ích như lợi ích do chính sách Nhà nước đãi ngộ cho họ. Sự giám sát và phê phán của xã hội đối với công chức Nhà nước Nhật Bản rất chặt chẽ, nghiêm khắc làm cho công chức Nhà nước phải hết sức giữ gìn, thận trọng. Nhiệm kỳ của các cán bộ lãnh đạo trong bộ thường rất ngắn, chỉ 2 năm cho nên cơ cấu công chức Nhà nước ở Nhật Bản luôn luôn được trẻ hoá và dễ tránh được những tiêu cực về đặc quyền, đặc lợi.

Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trung Quốc là nước có diện tích rộng lớn (đứng thứ 4 trên thế giới), có dân số đông nhất thế giới 1.4 tỷ (năm 2023). Mặc dù phải đối mặt với rất nhiều vấn đề, song nền kinh tế Trung Quốc kể từ khi thực hiện chiến lược cải cách năm 1978 đã có nhiều khởi sắc. Trung Quốc được đánh giá là nước có tốc độ tăng GDP hàng năm vào loại cao nhất thế giới và tương đối ổn định trong nhiều năm (trên 7%). Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành công này cũng chính là việc Trung Quốc đã có những chiến lược, những chính sách hợp lý trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có nâng cao chất lượng đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế.

Tôn chỉ của Trung Quốc trong sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao là “tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước” chính là một nguyên nhân dẫn đến thành công của đất nước đông dân này.

Một nguyên nhân nữa dẫn đến thành công của Trung Quốc là do việc xây dựng đội ngũ công chức quản lý nhà nước các cấp. Trung Quốc cho rằng, việc trẻ hoá đội ngũ công chức Nhà nước là nhu cầu của quá trình hiện đại hóa, là điều kiện quan trọng trong việc phát triển đất nước.

Trong tổng số 344 ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (khoá XV) (năm 1997), 92% có trình độ đại học trở lên. Tuổi bình quân của ban lãnh đạo là 55.9, trong đó có 72 ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng dưới 50 tuổi (Vũ Hồng Huy, 2011). Bên cạnh xu thế trẻ hoá đội ngũ cán bộ, Trung Quốc rất quan tâm xây dựng đội ngũ công chức quản lý nhà nước. Thẩm Quyến là một trong số những đặc khu kinh tế của Trung Quốc được Chính phủ giao nhiệm vụ đi đầu trong việc xây dựng chế độ công chức nhà nước để rút kinh nghiệm tiến tới triển khai ra toàn quốc. Trong một thời gian ngắn (7-8 năm), Thẩm Quyến từ một thị trấn nhỏ bé, lạc hậu đã trở thành một thành phố hiện đại. Nguyên nhân chủ yếu của thắng lợi này là “đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ có trình độ chính trị và tố chất nghiệp vụ tương đối cao”.

Xây dựng đội ngũ công chức công chức quản lý Nhà nước ở Thẩm Quyến được bắt đầu từ việc xác lập công tác quy hoạch đào tạo, xây dựng bộ máy đào tạo và cơ sở đào tạo đến việc thể chế hoá đội ngũ công chức công chức quản lý Nhà nước về kinh tế. Nhờ đó, từ chỗ chỉ có 9% cán bộ, công chức có trình độ đại học trở lên đến năm 1987, Thẩm Quyến đã có 37,2 %. Trong tổng số 43.583 công chức của Thẩm Quyến, thì số được đào tạo là 20.000 người (Trần Thọ Quang, 2010).

Bên cạnh đó, đặc khu đã tiến hành một loạt cải cách về chế độ nhân sự hiện có. Chính quyền đặc khu đã cải cách chế độ điều động, phân công cán bộ, thực hiện nhiều phương thức điều phối, lấy việc tuyển mộ là chính. Kết hợp giáo dục với huấn luyện chuyên ngành để bồi dưỡng nhân tài. Cải cách chế độ sát hạch, thực hiện thăm dò ý kiến quần chúng, bình xét công chức một cách dân chủ. Mở rộng việc quản lý và giám sát. Cải cách chế độ bổ nhiệm cán bộ, thực hành chế độ uỷ nhiệm, thi vào làm việc theo nhiệm kỳ, trước khi nhận chức vụ lãnh đạo phải qua tập sự. Chính quyền đặc khu còn tiến hành điều tra, phân tích chức vị của các nhân viên làm việc trong các cơ quan Nhà nước. Đưa ra những quy định tương đối chi tiết về chế độ trách nhiệm theo cương vị của các loại, các cấp cán bộ. Cải cách chế độ tiền lương, định ra biểu lương với 48 bậc...

Kinh nghiệm của Thẩm Quyến đã trở thành hình mẫu cho nhiều địa phương khác của Trung Quốc trong việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức quản lý Nhà nước về kinh tế.

Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Nguồn nhân lực Hàn Quốc là một trong những nhân tố hàng đầu tạo nên những kỳ tích kinh tế của Hàn Quốc. Có thể nói, những sự “thần kỳ” trong phát triển kinh tế - xã hội là kết quả của những cố gắng không mệt mỏi của những con người nơi đây - những người lao động cần cù, chịu khó, ham học hỏi, kỷ luật, tinh thần chịu áp lực cao. Mặc dù đầu những năm 1960, Hàn Quốc là một trong những quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thuộc các nước thấp nhất thế giới - chưa đến 100 USD, đến năm 2018, thu nhập đầu người của Hàn Quốc vượt 30.000 USD/năm (TTXVN, 2019), trong khi tài nguyên thiên nhiên không phải là thế mạnh của quốc gia này. Nguyên nhân của sự thành công này là ở chỗ: Hàn Quốc đã áp dụng chiến lược phát triển hướng ngoại với xuất khẩu là động lực và thực hiện chính sách xây dựng bộ máy hành chính gọn nhẹ, hữu hiệu.

Hệ thống công vụ của Hàn Quốc dựa trên quan niệm về “công quyền” và gắn chặt vào nguyên tắc “công trạng” (nhiệm vụ hoàn thành), tức là tạo lập cho công chức các quyền hạn để thực thi nhiệm vụ và được đánh giá, đãi ngộ qua “công trạng”, loại bỏ dần chế độ bổng lộc, thực thi chế độ nghiêm ngặt, theo dõi và ghi lại quá trình công tác của công chức trong từng giai đoạn, coi đó là một chứng chỉ nghề nghiệp.

Mặt khác, Hàn Quốc rất coi trọng công tác đào tạo công chức quản lý nhà nước. Mục tiêu đào tạo công chức là nâng cao kiến thức và kỹ năng để thực hiện tốt nhiệm vụ, nâng cao tính tích cực nhằm đạt hiệu quả tối ưu trong công việc, động viên công chức yên tâm công tác. Việc đào tạo công chức không chỉ nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, kỹ năng quản lý mà còn đặc biệt đề cao việc bồi dưỡng nhân cách, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công vụ. Tất cả công chức Hàn Quốc đều được động viên tham gia một hình thức đào tạo nhân cách và tính tích cực để phát triển toàn diện, nhằm đề cao trách nhiệm và nhiệm vụ của họ với tư cách là một thành viên công vụ.

BÀI HỌC CHO VIỆT NAM HIỆN NAY

Từ kinh nghiệm của các nước về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, có thể rút ra bài học cho Việt Nam như sau:

Một là, quan tâm đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo (GD-ĐT), nâng cao chất lượng đào tạo - bồi dưỡng

Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế phải coi trọng phát triển GD - ĐT; Nâng cao chất lượng những cơ sở đào tạo có uy tín chất lượng tại địa phương. Tăng chi ngân sách cho GD - ĐT để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trường đại học, các trường cao đẳng. Đổi mới chương trình nội dung, phương pháp dạy học. Nâng cao chất lượng, trình độ học vấn của đội ngũ giáo viên. Hỗ trợ ngân sách đào tạo bậc sau đại học trong nước và ngoài nước. Kết nối giữa các cấp đào tạo từ đại học - sau đại học. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo: Tập trung, vừa học vừa làm, trong nước, ngoài nước. Khuyến khích các cá nhân và doanh nghiệp đầu tư đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước. Đặc biệt quan tâm các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho Tỉnh. Bổ sung, điều chỉnh cơ chế, chính sách cho phù hợp với các đối tượng học viên.

Hai là, đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo - bồi dưỡng, sử dụng, thu hút đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước

Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước, cần có quy hoạch, kế hoạch chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước cho từng thời kỳ. Có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đúng đắn, đặc biệt là cơ chế, chính sách thu hút và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, các nhà quản lý, các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, coi trọng công tác luân chuyển, điều động qua các vị trí công tác và qua thực tiễn tại cơ sở.

Ba là, quan tâm xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức, mở rộng và phát triển các Hội khuyến học ở mọi cấp, mọi cơ quan, đơn vị

Cần quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức nhất là quan tâm xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trẻ, tạo phong trào học tập và phong trào xã hội hoá học tập, khuyến khích tự học tập, học tập liên tục, học tập suốt đời, vừa làm vừa học… Quan tâm phát triển các Hội khuyến nông, Hội khuyến công, Hội khuyến ngư… đưa nhanh tiến bộ khoa học – công nghệ đến với người lao động để tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế.

Bốn là, đổi mới chính sách tuyển dụng, thu hút, đãi ngộ đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế có chất lượng cao

Quan tâm các chính sách hỗ trợ, đãi ngộ nguồn nhân lực có chất lượng như ưu đãi về nhà ở, phụ cấp… Cần đổi mới các chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao, chính sách tuyển dụng, thu hút đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế hợp lý sẽ tạo động lực cho phát triển nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về kinh tế.

Năm là, cần chú trọng năng lực thực tế, đề cao kết quả thực hiện công việc

Xây dựng hệ thống đánh giá kết quả thực hiện công việc khách quan, minh bạch, đặc biệt, trong bối cảnh đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước có số lượng lớn, nhiều văn bằng, chứng chỉ, nhưng làm việc chưa hiệu quả. Cần đánh giá cao vai trò của người lãnh đạo do trình độ, năng lực chỉ đạo, điều hành, uy tín của người lãnh đạo ảnh hưởng rất lớn tới thái độ, hành vi, sự đoàn kết và nỗ lực của mỗi công chức trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước gọn nhẹ, hiệu quả, tinh giảm số lượng công chức nhưng phải đảm bảo hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức.

Bên cạnh đó, xây dựng nền công vụ phục vụ người dân, công chức thực thi công vụ với thái độ lịch sự, nhã nhặn, cởi mở. Từng bước nghiên cứu, vận dụng các phương pháp quản trị doanh nghiệp hiện đại vào quản lý cơ quan hành chính nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Đẩy mạnh hiện đại hóa nền hành chính, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để sử dụng hợp lý đội ngũ công chức, nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả phục vụ nhân dân, tiết kiệm thời gian, chi phí hoạt động hành./.

Tài liệu tham khảo

1. MURATA Yokuo, ADACHI Kanako, UMEMIYA Naoki (2019), JAPAN'S MOUTH WATERING SCHOOL LUNCH PROGRAM IS A MODEL FOR THE REST OF THE WORLD in The History of Japan’s Educational Development, Part II, retrieved from https://www.independent.co.uk/life-style/japan-school-lunch-program-children-food-model-countries-world-a8275616.html.

2. OECD (2012), Education at a Glance: OECD Indicators, Korea, retrievied from https://www.oecd.org/education/EAG2012%20-%20Country%20note%20-%20Korea.pdf.

3. OECD (2016), EducationPolicy Outlook Korea, retrieved from http://www.oecd.org/education/Education-Policy-Outlook-Korea.pdf.

Phạm Đức Toàn (2018), Một số cải cách trong tổ chức bộ máy của Trung Quốc hiện nay, truy cập từ https://tcnn.vn/news/detail/40350/Mot-so-cai-cach-trong-to-chuc-bo-may-cua-Trung-Quoc-hien-nay.html.

4. Romer, P. (1986), Increasing Returns and Long-Run Growth, The Journal of Political Economy, 94(5), 1002-1037.

5. Squire, L., Knowlton, B., and Musen, G (1993), The structure and organization of memory, Annual Review of Psychology, 44, 453-495.

6. TTXVN (2019), Thu nhập bình quân đầu người trên 30.000 USD "thách thức" Hàn Quốc, truy cập từ https://tuoitre.vn/han-quoc-thu-nhap-binh-quan-dau-nguoi-lan-dau-tien-vuot-30-000-usd-20190305153914658.htm.

7. Trần Thọ Quang (2010), Về cơ chế tuyển chọn, sử dụng cán bộ lãnh đạo cơ sở của Trung Quốc hiện nay, truy cập từ https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem-10-06/-/2018/1077/ve-co-che-tuyen-chon%2C-su-dung-can-bo-lanh-dao-co-so-cua-trung-quoc-hien-nay.aspx.

8. Võ Hải Thanh (2014), Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông ở Hàn Quốc, Trung tâm Nghiên cứu Hàn Quốc – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.

9. Vũ Hồng Huy (2011), Về tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo của Trung Quốc, truy cập từ https://xaydungdang.org.vn/quoc-te/ve-tieu-chuan-can-bo-lanh-dao-cua-trung-quoc-4475.

ThS. Trần Quang Ninh

Ban Tổ chức Trung ương

Ngày nhận bài: 22/3/2024; Ngày phản biện: 28/3/2024; Ngày duyệt đăng: 03/4/2024