Tập trung triển khai các giải pháp đồng bộ phát triển bền vững các KCN tỉnh Vĩnh Phúc
Một góc KCN Bá Thiện 2 , huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc

PV: Thưa ông, phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị “Phát triển bền vững KCN tỉnh Vĩnh Phúc”, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của các KCN đối với phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Với trách nhiệm được giao quản lý nhà nước về KCN, xin ông chia sẻ những tác động tích cực của phát triển các KCN đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc?

Trưởng ban Hà Đình Nhã: Phát huy cao vai trò, hiệu lực và hiệu quả hoạt động, trong thời gian qua công tác quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng và phát triển các KCN luôn được Ban Quản lý các KCN đặc biệt quan tâm, chú trọng, tăng cường. Do vậy, công tác đầu tư kết cấu hạ tầng KCN và thu hút đầu tư vào các KCN trên địa bàn đã đạt được kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh, cụ thể:

Thứ nhất, thu hút được lượng vốn đầu tư lớn, bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;

Thứ hai, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi không gian phát triển, thúc đẩy liên kết ngành và liên kết vùng, tạo nền tảng quan trọng cho tăng trưởng trong dài hạn;

Thứ ba, đẩy mạnh tăng trưởng sản xuất ngành công nghiệp, nâng cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế; đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước;

Thứ tư, góp phần giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động và cải thiện chất lượng nguồn nhân lực;

Thứ năm, đóng góp tích cực vào công tác bảo vệ môi trường và thực hiện định hướng tăng trưởng xanh;

Thứ sáu, thúc đẩy mối quan hệ ngoại giao, kinh tế, thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và các đối tác quan trọng.

Thứ bảy, việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN đã cơ bản được các nhà đầu tư triển khai thực hiện theo quy hoạch được duyệt; thiết kế công trình hạ tầng, phương án phòng cháy chữa cháy, đánh giá tác động môi trường đã được cơ quan quản lý nhà nước thẩm định, phê duyệt theo quy định. Khi hoàn thành đưa vào sử dụng đều được cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, nghiệm thu, xác nhận hoàn thành theo quy định.

Thứ tám, công tác quản lý nhà nước đối với KCN trên địa bàn Tỉnh được lãnh đạo Tỉnh quan tâm, chỉ đạo sát sao; các sở, ngành, UBND huyện, thành phố đã dần chủ động, tăng cường thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các KCN.

Tập trung triển khai các giải pháp đồng bộ phát triển bền vững các KCN tỉnh Vĩnh Phúc
Ông Hà Đình Nhã, Trưởng ban, Ban Quản lý các KCN Vĩnh Phúc báo cáo tình hình phát triển KCN trên địa bàn Tỉnh tại·Hội nghị “Phát triển bền vững KCN tỉnh Vĩnh Phúc” diễn ra ngày 20/9/2024 vừa qua

PV: Xin ông vui lòng giới thiệu cụ thể về tình hình thu hút đầu tư và phát triển hạ tầng của các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc?

Trưởng ban Hà Đình Nhã: Tính đến hết tháng 8/2024, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc có 17 KCN đã được thành lập với tổng diện tích là 3.142,96 ha, trong đó có: 9 KCN đã đi vào hoạt động gồm các KCN: Kim Hoa, Khai Quang, Bình Xuyên, Bá Thiện, Bình Xuyên II - giai đoạn 1, Bá Thiện II, Tam Dương II - khu A, Thái Hòa - Liễn Sơn - Liên Hòa – khu vực II – giai đoạn 1, Thăng Long Vĩnh Phúc; 3 KCN đang triển khai xây dựng, gồm các KCN: Sơn Lôi, Tam Dương I- khu vực 2, Sông Lô II...

Về tình hình đầu tư hạ tầng KCN, tại 17 KCN đã được thành lập, UBND Tỉnh đã giao cho chủ đầu tư hạ tầng KCN thuê đất để triển khai, cụ thể như sau: 12 KCN đã được giao đất, với diện tích là 1.901,98 ha, trong đó:

4 KCN đã giao đủ đất theo quy hoạch. Các KCN này cơ bản đã hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật KCN đáp ứng các điều kiện để các nhà đầu tư thứ cấp xây dựng, hoạt động sản xuất kinh doanh; 5 KCN đã được giao đất, chủ đầu tư đã triển khai đầu tư hạ tầng kỹ thuật KCN và đi vào hoạt động (gồm KCN: Khai Quang, Bình Xuyên, Bá Thiện II, Tam Dương II – Khu A, Thái Hòa - Liễn Sơn - Liên Hòa - KVII - giai đoạn 1), nhưng vẫn còn một phần đất chưa bồi thường, giải phóng mặt bằng (BT, GPMB) xong; 3 KCN mới được giao đất, đang triển khai đầu tư hạ tầng kỹ thuật KCN (các KCN đang xây dựng nêu trên).

Trong 17 KCN đã được thành lập, đến nay trên địa bàn Tỉnh có 9 KCN đã đi vào hoạt động; diện tích đất công nghiệp và dịch vụ chủ đầu tư KCN đã cho nhà đầu tư thứ cấp thuê để xây dựng nhà máy là 1.037,4 ha.

Tính đến hết tháng 8/2024, trong các KCN đã thu hút được 493 dự án đầu tư còn hiệu lực, gồm: 117 dự án DDI với tổng vốn đầu tư 37.784,64 tỷ đồng và 376 dự án FDI với tổng vốn đầu tư 6.742,89 triệu USD.

Các KCN trên địa bàn Tỉnh hiện có 413 doanh nghiệp (dự án) đang hoạt động sản xuất kinh doanh (gồm 334 dự án FDI và 79 dự án DDI), chiếm 83,8% tổng số dự án đầu tư; đã tạo việc làm cho 142.440 lao động.

Trong 367 dự án FDI đầu tư vào KCN thuộc 20 quốc gia, vùng lãnh thổ đầu tư, đứng đầu là Hàn Quốc với 183 dự án, số vốn đầu tư 1,9 tỷ USD; thứ hai là Nhật Bản với 48 dự án, số vốn đầu tư gần 1,1 tỷ USD; thứ ba là Đài Loan với 44 dự án, số vốn đầu tư là 1,13 tỷ USD; thứ tư là Trung Quốc với 42 dự án, số vốn đầu tư là 387 triệu USD; thứ năm là Thái Lan với 10 dự án, tổng vốn đầu tư gần 750 triệu USD, tiếp theo là Samoa (9 dự án- 93 triệu USD); Singapor (7 dự án- 154 triệu USD); Bristish Virgin Island (6 dự án- 112 triệu USD); Ấn Độ (5 dự án – 14,6 triệu USD); Hà Lan (2 dự án-43 triệu USD); Hoa Kỳ (2 dự án-17,6 triệu USD); Thụy Điển (2 dự án- 35 triệu USD); Italia (1 dự án- 165 triệu USD); Anh (1 dự án-18 triệu USD)…

Vốn thực hiện (giải ngân) của dự án đạt trung bình từ 60-65% so với tổng vốn đầu tư. Tính đến nay, vốn đầu tư thực hiện của các dự án FDI đạt 4,16 tỷ USD, đạt 62% tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án; tương đương với mức trung bình chung của cả nước.

Diện tích đất đã cho nhà đầu tư thứ cấp thuê: 1.051,67 ha; chưa cho nhà đầu tư thứ cấp thuê: 437,5 ha (do chưa đảm bảo hạ tầng; chưa có nhà đầu tư thứ cấp thuê, chủ đầu tư chưa cho thuê…).

Tập trung triển khai các giải pháp đồng bộ phát triển bền vững các KCN tỉnh Vĩnh Phúc
Các lực lượng chức năng kiểm tra hệ thống xử lý nước thải tại KCN Khai Quang, tỉnh Vĩnh Phúc

PV: Được biết hiện nay, cũng như các KCN của cả nước, tình hình đầu tư, phát triển các KCN của Tỉnh đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, nên gây ảnh hưởng lớn đến công tác thu hút đầu tư và phát triển hạ tầng các KCN. Ông nghĩ sao về vấn đề này?

Trưởng ban Hà Đình Nhã: Trong quá trình triển khai xây dựng và phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc, với chức trách, nhiệm vụ được UBND Tỉnh giao trong công tác quản lý nhà nước và xúc tiến, thu hút đầu tư và phát triển hạ tầng các KCN của Tỉnh, Ban Quản lý các KCN Vĩnh Phúc (Ban Quản lý) đã và đang phấn đấu hết sức mình để nâng cao tinh thần, trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ được giao. Song cũng như thực trạng chung của Ban Quản lý các KCN của các địa phương khác, trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, chúng tôi đang gặp phải rất nhiều khó khăn, vướng mắc liên quan đến các cơ chế, chính sách về phát triển KCN, khu kinh tế (KKT) và cả nhiều nguyên nhân khác do khách quan và chủ quan tác động, cụ thể như:

Hiện nay, các cơ chế, chính sách phát triển các KCN, KKT mới chỉ dừng lại ở cấp Nghị định, chưa có Luật chuyên ngành về KCN, KKT nên tính pháp lý chưa phải khung cao nhất. Các chính sách pháp luật chuyên ngành liên quan đến KCN, KKT còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo (Luật Xây dựng, Luật Đầu tư; Luật Quy hoạch; Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai...), chưa đảm bảo tính ổn định, thống nhất, đồng bộ, do đó gây khó khăn trong quá trình thực thi chính sách về KCN. Đồng thời, thường có sự xung đột, thiếu thống nhất khi quy định của pháp luật chuyên ngành được sửa đổi, bổ sung, thay thế. Bên cạnh đó, một số nhiệm vụ theo quy định của pháp luật được ủy quyền/phân cấp cho Ban Quản lý các KCN thực hiện, nhưng hiện nay Ban Quản lý các KCN vẫn chưa được ủy quyền/phân cấp trong lĩnh vực môi trường; quản lý chất lượng công trình đối với dự án, công trình xây dựng trong KCN. Ban Quản lý các KCN không được giao thực hiện việc cấp, cấp lại, gia hạn, xác nhận không thuộc diện cấp phép, thu hồi giấy phép lao động và tiếp nhận báo cáo giải trình của doanh nghiệp trong KCN về nhu cầu sử dụng người nước ngoài đối với từng vị trí công việc mà người Việt Nam chưa đáp ứng được; đồng thời không tiếp nhận báo cáo về tình hình sử dụng lao động nước ngoài, gây khó khăn cho các doanh nghiệp do chưa tập trung về một đầu mối để giải quyết tất cả các thủ tục hành chính...

Về mô hình phát triển và quản lý nhà nước đối với KCN, Nghị định số 35/2022/NĐ-CP, ngày 28/5/2022 của Chính phủ về quản lý KCN đã đề cập đến các loại hình KCN mới như: KCN hỗ trợ, KCN chuyên ngành, KCN sinh thái và KCN công nghệ cao, nhưng chưa có quy định cụ thể về về quy hoạch, thành lập, đầu tư, phát triển và quản lý các loại hình KCN này để các tỉnh triển khai không bị vướng mắc.

Công tác BT, GPMB triển khai thực hiện còn chậm, kéo dài, ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ triển khai thực hiện dự án. Việc triển khai các khu tái định cư, việc di chuyển mồ mả phục vụ GPMB của các KCN triển khai chậm đã làm ảnh hưởng đến công tác GPMB các KCN, do vậy ảnh hưởng lớn đến tiến độ đầu tư, cũng như hiệu quả đầu tư của các KCN.

Nguồn đất san nền KCN trong thời gian gần đây gặp rất nhiều khó khăn, trong đó hầu hết các KCN đều có nhu cầu lớn về đất san nền.

Chưa xác định giá đất: Hiện nay một số KCN đã được UBND Tỉnh giao đất, nhưng chưa xác định được giá đất thuê; do đó chủ đầu tư gặp khó khăn trong việc thu hút nhà đầu tư thứ cấp vào KCN và phương án huy động vốn từ các tổ chức tín dụng để đầu tư KCN.

Chất lượng quy hoạch chi tiết xây dựng KCN còn hạn chế: Trong quá trình triển khai quy hoạch phải điều chỉnh nhiều lần (giai đoạn 2015-2021, các quy hoạch xây dựng KCN được điều chỉnh đến 21 lần cho 10 đồ án quy hoạch). Quy hoạch xây dựng một số KCN được lập, thẩm định và phê duyệt chưa đồng thời với phê duyệt quy hoạch bố trí xây dựng nhà ở công nhân, các công trình văn hóa, xã hội phục vụ người lao động.

Công tác xúc tiến đầu tư hiệu quả chưa cao; tính cạnh tranh, hấp dẫn đầu tư vào các KCN bị giảm dần, chưa có dự án lớn mang tính dẫn dắt so với một số tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Hồng. Thêm vào đó, các ngành mũi nhọn hiện tại cũng có xu hướng giảm sút và mất dần lợi thế cạnh tranh.

Các dự án DDI thứ cấp trong KCN chủ yếu là dự án có quy mô nhỏ và vừa, công nghệ cũ. Một số chủ đầu tư có năng lực hạn chế, “vốn mỏng”, dẫn đến dự án chậm tiến độ, kinh doanh không hiệu quả. Việc kết nối trong sản xuất, kinh doanh và chuyển giao công nghệ giữa khối doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Số lượng doanh nghiệp trong nước trên địa bàn Tỉnh tham gia sâu vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI không nhiều.

Quá trình phát triển các KCN, cùng với sự mở rộng không ngừng về số lượng các doanh nghiệp dẫn đến nhu cầu về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trong KCN tăng nhanh. Nhưng khả năng đáp ứng về nhu cầu chất lượng nhân lực cho các doanh nghiệp còn hạn chế, cần tập trung phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp ở các KCN.

Năng lực và hiệu lực thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá đầu tư chưa cao và thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các sở, ban, ngành; chưa kịp thời phát hiện và xử lý các dự án triển khai chậm tiến độ.

Vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, UBND cấp huyện trong quản lý các KCN chưa được thực hiện đầy đủ, hiệu quả trên một số lĩnh vực như: Quản lý trật tự xây dựng; quản lý đất đai, công tác BT và GPMB, công tác bảo vệ môi trường…

Theo quy định của pháp luật hiện hành, giá thuê đất trong KCN do nhà đầu tư hạ tầng quyết định (theo cơ chế thị trường). Hiện nay giá thuê đất bình quân trên địa bàn Tỉnh cao hơn mặt bằng chung một số tỉnh dẫn đến giảm sự cạnh tranh trong thu hút đầu tư so với các tỉnh: Bắc Giang, Hưng Yên, Hải Dương…

Năng lực kinh nghiệm, năng lực tài chính của một số chủ đầu tư còn hạn chế. Một số chủ đầu tư chưa chủ động, chưa phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, các sở, ngành liên quan đến giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong công tác BT, GPMB. Một số thời điểm chủ đầu tư chưa kịp thời ứng vốn để thực hiện công tác BT, GPMB.

Tập trung triển khai các giải pháp đồng bộ phát triển bền vững các KCN tỉnh Vĩnh Phúc
Toàn cảnh KCN Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc

PV: Định hướng phát triển các KCN của Tỉnh trong thời gian tới là gì, thưa ông?

Trưởng ban Hà Đình Nhã: Trên cơ sở Quy hoạch Tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 158/QĐ-TTg ngày 06/02/2024; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025, Vĩnh Phúc xác định định hướng phát triển KCN của Tỉnh trong thời gian tới đó là:

Một là, phát triển các KCN chất lượng cao:

Hoàn thiện, thường xuyên duy tu, bảo dưỡng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật các KCN đã được thành lập. Tập trung nguồn lực vào công tác BT, GPMB để sớm giao đủ đất cho các chủ đầu tư hạ tầng KCN nhằm và hoàn thiện đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật, trạm xử lý nước thải tập trung tại các KCN đã được thành lập. Kiên quyết khắc phục những tồn tại, hạn chế (nhất là hạ tầng kỹ thuật các KCN), đưa công tác quản lý KCN vào nề nếp, đúng định hướng; thực sự phát huy vai trò, hiệu quả của các KCN.

Đầu tư phát triển thêm một số KCN có lợi thế, có tính khả thi theo Danh mục các KCN tại Phụ lục III ban hành kèm theo Quyết định số 158/QĐ-TTg ngày 06/02/2024 của Thủ tướng Chính phủ; phát triển mới KCN theo lộ trình cụ thể, không phát triển ồ ạt. Dự kiến đến năm 2025, lập hồ sơ đề xuất chủ trương đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ 4 - 8 KCN mới (như KCN: Lập Thạch I, Lập Thạch II, Tam Dương II – Khu B, Chấn Hưng, Bình Xuyên – Yên Lạc I, Bình Xuyên – Yên Lạc II và một số KCN có tiềm năng khác).

Phấn đấu đến năm 2030, Vĩnh Phúc có 28 KCN với diện tích là 4.815 ha. Ưu tiên thu hút các nhà đầu tư xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng KCN có tiềm lực tài chính, có kinh nghiệm phát triển thành công các KCN trên địa bàn cả nước; thực hiện đầu tư phát triển các KCN đảm bảo chặt chẽ, đúng quy hoạch đã được phê duyệt; phát triển các KCN mới gắn chặt với yêu cầu bảo vệ môi trường, hạ tầng xã hội (bao gồm nhà ở công nhân, các thiết chế văn hóa, thể thao, chương trình phúc lợi phục vụ người lao động), hạ tầng đến hàng rào KCN (gồm: giao thông, điện, nước, viễn thông…). Các KCN phải đầu tư hoàn chỉnh hạ tầng xử lý nước thải mới được phép đi vào hoạt động.

Tập trung triển khai các giải pháp đồng bộ phát triển bền vững các KCN tỉnh Vĩnh Phúc
Toàn cảnh KCN Kim Hoa, tỉnh Vĩnh Phúc

Hai là, thu hút các dự án quy mô lớn, công nghệ cao

Thu hút các nhà đầu tư chiến lược đến đầu tư tại tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở định vị tầm nhìn, phương hướng, cách thức xây dựng hệ thống giải pháp khuyến khích, hỗ trợ đầu tư, tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi nhằm thu hút thành công các dự án lớn, nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia. Đồng thời chuyển dịch dần mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế từ chiều rộng đến chiều sâu, từ hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng thấp hướng tới hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn theo hướng chủ động, tích cực, trọng tâm, trọng điểm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững.

Ưu tiên thu hút các nhà đầu tư có dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế tạo công nghệ cao bao gồm: công nghiệp máy tính, điện thoại và điện tử; công nghiệp bán dẫn; công nghiệp ô tô, xe máy điện và công nghiệp dược phẩm, nông nghiệp công nghệ cao; dự án của các tập đoàn đa quốc gia đầu chuỗi và nhà cung ứng then chốt trong chuỗi cung ứng toàn cầu của tập đoàn đa quốc gia.

Ba là, tập trung quyết liệt thực hiện các giải pháp đồng bộ phát triển KCN

Tập trung quyết liệt đôn đốc các nhà đầu tư hạ tầng KCN đẩy mạnh công tác BT, GPMB; nâng cao hơn nữa trách nhiệm của cơ quan đầu mối giúp UBND Tỉnh về công tác quản lý nhà nước về KCN và các cơ quan quản lý chuyên ngành, các địa phương; thường xuyên nắm bắt tình hình, kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ, đưa các dự án vào hoạt động theo đúng kế hoạch, nhất là các KCN đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư.

Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc về xác định giá đất; nguồn đất san nền cho các dự án, đảm bảo kịp thời nhưng chặt chẽ, không để xảy ra sai sót.

Tiếp tục nghiên cứu, có chính sách mang tính dài hạn, ổn định trong hỗ trợ phát triển KCN đối với nội dung thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của Tỉnh, nhằm nâng cao hiệu quả công tác phát triển KCN trên địa bàn Tỉnh, tạo điều kiện hỗ trợ các chủ đầu tư và thu hút các tổ chức, cá nhân vào sản xuất, kinh doanh trong KCN hoạt động theo quy định. Trong đó, quan tâm đến các chính sách: (i) Xây dựng một số gói ưu đãi cho đối với từng nhà đầu tư, từng lĩnh vực cần thu hút đầu tư (đặc biệt khuyến khích đầu tư), về tiếp cận đất đai; (ii) Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực; (iii) Hỗ trợ về công tác bảo vệ môi trường; (iv) Hỗ trợ về nhà ở cho công nhân, người lao động trong các KCN trên địa bàn Tỉnh.

Nghiên cứu, xây dựng các công cụ thu hút đầu tư có chọn lọc, như: Danh mục dự án thu hút các nhà đầu tư chiến lược, lĩnh vực, ngành nghề chiến lược; xây dựng Bộ công cụ về sàng lọc dự án đầu tư của tỉnh Vĩnh Phúc; bộ tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư xây dựng, kinh doanh hạ tầng KCN, đảm bảo lựa chọn được các nhà đầu tư đủ năng lực, điều kiện để thực hiện dự án theo định hướng thu hút đầu tư trên địa bàn Tỉnh.

Tăng cường vai trò, trách nhiệm quản lý nhà nước của các sở, ngành, chính quyền các cấp đối với KCN theo hướng phân cấp, ủy quyền phù hợp, theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý gắn với tạo điều kiện thuận lợi, giải quyết kịp thời các khó khăn, hỗ trợ tốt nhất cho các chủ đầu tư hạ tầng, các doanh nghiệp trong KCN./.

PV: Xin trân trọng cảm ơn Ông!

Tập trung triển khai các giải pháp đồng bộ phát triển bền vững các KCN tỉnh Vĩnh Phúc
Toàn cảnh KCN Thăng Long, tỉnh Vĩnh Phúc