Nhận diện những bất cập

Lợi ích quyền lực chi phối tạo rủi ro lớn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần là tình trạng cá nhân và/hoặc một nhóm cổ đông có tỷ trọng cổ phần lớn cùng địa vị lãnh đạo cao, nắm nhiều quyền lực đã dùng chính địa vị và quyền lực đó để phục vụ lợi ích cá nhân/hoặc lợi ích nhóm.

Hiện nay, trong hệ thống NHTM Việt Nam có tình trạng cá nhân/nhóm lợi ích sở hữu chéo, thành lập công ty “sân sau”, đầu tư chéo, những chỉ đạo cho vay tập trung lớn vượt quá khả năng nguồn vốn cả về giá trị và cơ cấu, thời hạn cho khách hàng thân hữu là khá phổ biến. Thậm chí, có cả cơ cấu một số lãnh đạo ngân hàng đang đồng thời là chủ các doanh nghiệp khác xuất phát từ khởi nguồn do có doanh nghiệp lập ngân hàng và/hoặc có NHTM lập công ty riêng… Các vấn đề này đã trực tiếp gây nên rủi ro ngày càng lớn và khó xử lý đối với nhiều NHTM cổ phần. Hậu quả phát sinh của các giao dịch vốn giữa những người có liên quan tại NHTM không chỉ dừng lại ở những tác hại đối với bản thân ngân hàng đó, mà còn liên quan đến nhiều thành phần khác như: người gửi tiền, các cổ đông nhỏ, các thành viên góp vốn, toàn bộ hệ thống ngân hàng và sự phát triển của kinh tế - xã hội nói chung. Các biểu hiện có thể nhìn thấy qua các tác hại chủ yếu sau:

(1) Đối với thành viên góp vốn, cổ đông nhỏ: khi một số cá nhân có được sự tín nhiệm và nắm tỷ trọng cổ phần cao được giao phó trọng trách điều hành kinh doanh của tổ chức tín dụng (TCTD) nhưng lại lợi dụng để trục lợi, thì lúc này thành viên góp vốn, cổ đông nhỏ luôn bị thiệt hại, đặc biệt là cổ đông thiểu số. Nhiều giao dịch độc quyền giữa những người có quyền lực liên quan đã sử dụng vốn, nguồn lực của NHTM vào mục đích riêng, biến dòng chảy của nguồn vốn ngân hàng đi đến các địa chỉ do cá nhân hay nhóm lợi ích chỉ định đã làm méo mó mục tiêu hoạt động của NHTM, gây thiệt hại trực tiếp đến quyền lợi của các cổ đông trong ngân hàng, mà đặc biệt là quyền lợi của cổ đông thiểu số, những người không có quyền kiểm soát ngân hàng bởi số vốn ít ỏi. Khi thiệt hại tài sản của ngân hàng xảy ra sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nguồn vốn, nguồn thu lợi tức của họ, mặc dù số người là cổ đông nhỏ lớn gấp nhiều lần số người hay tổ chức là công ty góp vốn.

(2) Đối với người gửi tiền: mối quan hệ giữa người gửi tiền vào ngân hàng nhận tiền gửi là mối quan hệ tín thác để hưởng lãi suất tiền gửi theo kỳ hạn và rút gốc khi đáo hạn. Tức là người gửi tiền chính là người cung cấp nguyên liệu đầu vào cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng bằng niềm tin của mình. Khi các giao dịch độc quyền chiếm hữu nguồn vốn của NHTM vào các mục đích, địa chỉ riêng để xảy ra rủi ro, thiệt hại lớn khiến NHTM lâm vào tình trạng khủng hoảng, không có khả năng chi trả lãi đúng hạn, thậm chí có nguy cơ mất cả vốn gốc của người gửi tiền khiến họ không chỉ thiệt hại về tài sản, mà còn mất niềm tin vào ngân hàng, nên sẽ gây ra rủi ro đổ vỡ của trước hết là chính TCTD, sau đó là lây lan ra hệ thống nếu không kịp thời có những giải pháp ngăn chặn kịp thời. Hiện tượng này đã xuất hiện nhiều trong thực tiễn không chỉ ở Việt Nam, mà cả ở những quốc gia hàng đầu thế giới như: Hoa Kỳ, Anh, Pháp…

(3) Đối với hệ thống ngân hàng: trong cơ chế thị trường, NHTM là kênh rót vốn cho nền kinh tế cả bên sản xuất lẫn bên tiêu dùng, nên NHTM không thể hoạt động mang tính đơn lẻ mà luôn mang tính hệ thống. Tính hệ thống thể hiện là “dòng máu” chảy trong cơ thể nền kinh tế, nên khi bị tắc nghẽn một nơi nếu không có tiềm lực và giải pháp tức thời khắc phục, thì sẽ tác động dây chuyền mang tính hệ thống. Do đó, khi hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, lành mạnh sẽ góp phần phân bổ và luân chuyển các nguồn lực tài chính một cách hiệu quả, thông suốt, giúp cho các thành phần kinh tế tiếp cận được nguồn vốn từ các NHTM dễ dàng, tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển. Ngược lại, nếu khủng hoảng ngân hàng xảy ra sẽ lập tức gây tác động nghiêm trọng đến hệ thống thanh toán, suy giảm mạnh mẽ lòng tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, thu hẹp sản lượng đầu ra của khu vực sản xuất, tạo sức ép nặng nề không chỉ lên hệ thống NHTM, mà lan ra cả đời sống kinh tế và xã hội. Chúng ta đã từng chứng kiến từ trong nước đến thế giới, khi xuất hiện các ngân hàng có chủ đích muốn thâu tóm những ngân hàng khác thông qua mua lại, hợp nhất hoặc nắm quyền kiểm soát đã tạo ra cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Đặc biệt, khi dòng tiền bị chuyển sang cho vay các dự án "sân sau" của chính những người có quyền lực chi phối hoặc làm chủ ngân hàng, thì sẽ dẫn đến hệ lụy là rủi ro tăng nợ xấu, gây tác hại tới toàn hệ thống…

Hiện nay các quy định pháp luật của Việt Nam về kiểm soát giao dịch giữa những người có liên quan tại NHTM còn mang tính chất chung chung, khái quát, chưa rõ ràng. Thậm chí, nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, không bị điều chỉnh bởi luật đã gây nên sự tùy tiện trong việc áp dụng, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng cho cả hệ thống. Điển hình là đang thiếu hẳn hệ thống luật đầy đủ trong công tác quản lý tổ chức kinh doanh và quản trị NHTM, trong đó gồm cả việc thiếu các quy định pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa những người có quyền lực liên quan đến thao túng hoạt động kinh doanh tại TCTD.

Chống rủi ro do sử dụng quyền lực chi phối trong hoạt động của các tổ chức tín dụng
Hầu hết các NHTM cổ phần đã bị Ngân hàng Nhà nước mua lại với giá 0 đồng và các NHTM đang bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt đều có lý do liên quan đến dùng quyền lực cá nhân hoặc cá nhân núp bóng pháp nhân để thao túng, thu lợi riêng gây rủi ro cho chính các ngân hàng bị lợi dụng đó

(4) Đối với bản thân NHTM: khi trong NHTM có người chủ trục lợi riêng nhờ quyền lực sẽ xuất hiện các giao dịch bất thường giữa những người có liên quan tại NHTM đó nhằm chuyển các nguồn vốn và tài sản chạy vào “túi riêng” của một số chủ thể. Điều này đồng nghĩa với việc ngân hàng bị kìm hãm, không thể phát triển nhanh, thậm chí làm cho NHTM đó hoạt động đơn độc, phi hệ thống hóa sẽ tạo ra những thị trường vốn “ảo”, xâm hại đến môi trường phát triển lành mạnh và bình đẳng cho tất cả các ngân hàng. Bên cạnh đó, khi tài sản, lợi ích của ngân hàng bị cá nhân hóa, trong khi ngân hàng vẫn phải chi trả cả gốc lẫn lãi cho người gửi tiền trong khoảng thời gian không thu hồi được vốn hoặc thu hồi vốn chậm, dẫn đến lợi nhuận của ngân hàng bị giảm sút, có thể làm lũng đoạn, gây biến tướng hoạt động của thị trường, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến phá sản ngân hàng đó. Tuy nhiên, một trong những thiệt hại nặng nề mà ngân hàng phải gánh chịu do các giao dịch độc quyền giữa những người có liên quan gây ra đó là “mất niềm tin” của người gửi tiền, khi đó hệ lụy tiếp theo sẽ là sụp đổ ngân hàng. Hầu hết các NHTM cổ phần đã bị Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mua lại với giá 0 đồng trước đây và các NHTM đang bị đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt hiện nay cũng đều có lý do liên quan đến dùng quyền lực cá nhân hoặc cá nhân núp bóng pháp nhân để thao túng, thu lợi riêng gây rủi ro cho chính các ngân hàng bị lợi dụng đó. Việc NHNN đã từng mua lại 1 số NHTM với giá 0 đồng (như các Ngân hàng Xây dựng, Dầu khí Toàn cầu, Đại Dương) những năm trước đây để trực tiếp làm chủ và giao cho các NHTM Nhà nước cử người sang gây dựng lại dù đã cứu nguy sự sụp đổ mang tính hệ thống của các NHTM, nhưng quá trình này đã, đang và sẽ còn diễn ra rất chậm chạp!

Đề xuất các giải chống rủi ro do lợi dụng quyền lực chi phối hoạt động của TCTD

Một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả kiểm soát giao dịch giữa những người có liên quan tại NHTM

Hầu hết các quy định bảo vệ ngân hàng đã có hiện nay chủ yếu còn mang tính hình thức, vì bản chất của giao dịch giữa những người có liên quan tại NHTM là một hiện tượng kinh tế bình thường, khó nhận biết. Nó chỉ ảnh hưởng tiêu cực khi các tổ chức, cá nhân lợi dụng giao dịch để thực hiện những hành vi đi ngược lại quá trình vận động của thị trường, do đó, chúng ta không nhất thiết phải cấm loại giao dịch này, nhưng việc cần làm ngay là đặt ra các khung pháp lý để điều chỉnh giao dịch giữa những người có liên quan trong các điều kiện thị trường và phải giới hạn về số lượng nhất định. Cần bổ sung vào luật những quy định rõ ràng để hạn chế, không tập trung vốn lớn vào một khách hàng nhằm ngăn chặn trước hết việc lợi dụng quyền hạn của người có quyền lực cho vay dễ dãi hoặc quá mức cho các đối tượng có quan hệ bên trong/hoặc quan hệ thân hữu dễ dẫn đến việc khách hàng nợ quá hạn hay không có khả năng trả nợ. Cũng cần bổ sung vào dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) nội dung khẳng định các TCTD không phải là đối tượng điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp, mà TCTD chỉ tuân thủ sự điều chỉnh của Luật Các tổ chức tín dụng, bởi theo Luật Doanh nghiệp hiện hành, nếu cổ đông/nhóm cổ đông nào có sở hữu tỷ lệ đạt từ 35,1% vốn điều lệ trở lên, thì cổ đông/nhóm cổ đông đó được quyền phủ quyết (tức không thông qua) những vấn đề/nội dung thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ). Nghĩa là Luật Doanh nghiệp có tính khuyến khích cổ đông có tỷ trọng sở hữu cao vốn điều lệ của doanh nghiệp. Như đã phân tích, hiện nay, pháp luật Việt Nam đã và đang có những bước điều chỉnh về cơ chế kiểm soát giao dịch giữa những người có liên quan tại NHTM. Các điều chỉnh này không thể khuyến khích, mà cần giảm thiểu tỷ trọng sở hữu cổ phần của cổ đông lớn. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả của cơ chế kiểm soát loại giao dịch này, cần thực hiện các giải pháp sau:

Một là, pháp luật cần quy định chi tiết dưới hình thức liệt kê những người có liên quan với người có quyền lực cao cả về chức vụ lẫn tỷ lệ sở hữu cổ phần, để có kênh theo dõi nhóm lợi ích này.

Hai là, phải bổ sung vào dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) nội dung khẳng định tính độc lập của Ban kiểm soát, luật hóa quyền hạn của Ban kiểm soát, một trong những cơ quan giám sát giao dịch giữa những người có liên quan tại NHTM. Mô hình NHTM cổ phần theo pháp luật Việt Nam đã áp dụng kiểu cơ cấu Hội đồng quản trị hai cấp theo mô hình của Đức. Tuy nhiên, thực tế tại các NHTM Việt Nam, hoạt động của Ban kiểm soát hiện mang tính hình thức, còn để cho điều lệ của TCTD quy định chức năng, quyền hạn của Ban Kiểm soát. Do đó, Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) cần bổ sung trách nhiệm của Ban Kiểm soát, trước hết là Trưởng ban Kiểm soát phải chịu trách nhiệm pháp lý và tài sản khi NHTM do mình trong Ban Kiểm soát bị vỡ nợ mà Ban Kiểm soát không biết trước, chưa trình báo tình hình với Hội đồng quản trị và trực tiếp với cấp trên liên quan của NHTM đó để có giải pháp khắc phục sớm, ngoại trừ các nhân tố khách quan ngoài tầm kiểm soát của Ban Kiểm soát. Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) cũng cần quy định cụ thể quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Kiểm soát, không để cho điều lệ ngân hàng quy định như hiện nay đã và đang làm giảm vai trò của Ban Kiểm soát, tạo cho người có quyền lực trong ban hành vô hiệu hóa các quy chế giám sát bằng các quy định hợp pháp hóa và từ đó thu lợi riêng, gây thiệt hại cho TCTD và cổ đông thiểu số.

Ba là, cần bổ sung thông tin chi tiết bắt buộc vào hồ sơ vay ngân hàng của khách hàng để làm giàu và chi tiết hóa nguồn thông tin trong kho thông tin tín dụng khách hàng đã có tại Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia - CICB thuộc NHNN, để cung cấp thông tin đầy đủ hơn cho các TCTD trước khi quyết định cho vay... Các thông tin cần bổ sung phải ghi vào dự thảo Luật gồm: khách hàng có quan hệ gì với lãnh đạo ngân hàng mà mình xin vay; đây là lần vay thứ mấy tại ngân hàng; hiện khách hàng đang là con nợ của những TCTD nào; thống nhất hình thức trả nợ; thống nhất hình thức xử lý tài sản đảm bảo khi khách hàng mất khả năng trả nợ... Tất cả hồ sơ này đều buộc phải gửi về CICB để trao đổi thông tin khách hàng trước khi có quyết định giải ngân cho vay.

Những việc cần làm ngay trong sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng

Ngoài việc bổ sung vào dự Luật các nội dung về: chức năng, nhiệm vụ của Ban Kiểm soát; các thông tin bổ sung trong hồ sơ vay vốn như đã nêu trên, thì những việc cần làm ngay trong quá trình sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng đang được triển khai là phải luật hóa bằng con số giảm tỷ lệ sở hữu của cổ đông cá nhân, cũng như của nhóm cổ đông lớn để tạo ra một cơ cấu cổ đông đối với mọi TCTD phải có độ phân tán lớn hơn, lành mạnh hơn, tránh quyền chi phối từ nhiều hình thức của cổ đông quá lớn như hiện nay. Chỉ có giải pháp này khi được luật hóa kết hợp với vai trò độc lập của Ban Kiểm soát tại chỗ và thanh tra, giám sát từ cơ quan chuyên ngành của Nhà nước, thì mới hạn chế được các hành vi thao túng hoạt động của TCTD tồn tại bấy lâu nay, gây tổn hại đến lợi ích và tính hệ thống của ngân hàng nói chung, các cổ đông nhỏ lẻ nói riêng.

Cũng cần luật hóa vào dự thảo Luật các nội dung chi tiết về đối tượng lẫn tỷ lệ và công khai hóa vấn đề cho vay sân sau đối với các ông/bà chủ, cổ đông lớn nắm quyền chi phối tại các ngân hàng như đang diễn ra. Theo Luật hiện hành, tổng dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng là quá lớn. Cần giảm mạnh ít nhất chỉ còn 50%- 60% con số hiện tại (tức chỉ còn từ 12-15% vốn tự có của TCTD). Trong thực tế lâu nay chúng ta đã thấy một số tập đoàn bất động sản lớn, hay tập đoàn vận tải lớn có tỷ lệ vay nợ cao theo luật hiện hành tại một số ngân hàng thân quen. Khi các tập đoàn này bị tắc nghẽn dòng tiền, mất khả năng thanh toán, đã và sẽ mang lại những rủi ro lớn tác động tiêu cực lên hoạt động của chính các ngân hàng cho vay với tỷ lệ cao đó.

Quan điểm chống rủi ro phải được luật hóa trong Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) lần này theo hướng, mọi TCTD phải là ngân hàng của đại chúng chứ không thể là ngân hàng của một nhóm người chi phối ở đầu ra theo ý muốn. Dự Luật cần xóa mô hình lãnh đạo ngân hàng đồng thời là chủ các doanh nghiệp khác. Cơ chế quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của các TCTD cũng cần làm rõ hơn trong dự án Luật này, đó là NHNN phải chỉ đạo và giao nhiều quyền lực cho các chi nhánh NHNN các địa phương trong việc buộc các TCTD phải báo cáo và chi nhánh có cơ chế kiểm soát mức độ tập trung tín dụng vào một số khách hàng, nhóm khách hàng lớn, khách hàng có liên quan đến cổ đông lớn, người có liên quan của cổ đông lớn của TCTD, tình trạng cho vay chéo... Cũng cần cụ thể hóa các tỷ trọng cấp tín dụng cho khách hàng bất động sản một cách hợp lý trên tổng dư nợ và tỷ trọng cho vay mua bất động sản phải luôn luôn lớn hơn tỷ trọng cho vay sản xuất bất động sản, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.../.