Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam và Chủ tịch WB Jim Yong Kim chính thức công bố Báo cáo Việt Nam 2035. Ảnh: VGP/Đình Nam

Báo cáo Việt Nam 2035: Vì sao “nóng”?

Trời se lạnh, thêm chút mưa phùn khiến tiết trời càng âm u, lạnh lẽo. Song, hiếm khi có một buổi lễ công bố nào lại đông đại biểu tham dự đến thế.

Mặc dù từ khi phát công văn mời, đến khi tổ chức công bố chỉ có vẻn vẹn vài ngày, song trong hội trường khách sạn Sheraton, số đại biểu đến vượt dự kiến của ban tổ chức. Nhiều đại biểu không có ghế, vẫn kiên nhẫn đứng chờ.

Nếu những ai đã theo dõi tiến trình phôi thai đến khi ra đời của Báo cáo này thì có thể hiểu vì sao Báo cáo Việt Nam 2035 lại thu hút được sự quan tâm của đông đảo dư luận như vậy.

Bởi, như Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chia sẻ: “30 năm kể từ khi có Đổi Mới, hôm nay, chúng ta có mặt ở đây để công bố Báo cáo quan trọng về một Việt Nam trong 20 năm tới đây - một Việt Nam sau 50 năm thực hiện Đổi Mới”.

Năm 1986, tại Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối Đổi Mới, mở ra một chặng đường mới để Việt Nam vươn lên thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình, một điểm sáng trong thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc.

“Vui mừng và tự hào về những thành tựu to lớn của 30 năm Đổi Mới nhưng chúng tôi không thể thỏa mãn”, Phó Thủ tướng khẳng định.

Khát vọng của Nhân dân Việt Nam về một tương lai tươi sáng “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” với một nền kinh tế thịnh vượng, môi trường bền vững, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân đòi hỏi chúng tôi phải nỗ lực hơn nữa; thôi thúc Đảng, Nhà nước phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ hơn nữa, trước hết và kể cả là trong nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành theo đúng phương châm công khai, minh bạch, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Việt Nam nên và cần làm gì để nắm bắt thời cơ, vượt lên thử thách, phát huy có hiệu quả nhất các lợi thế, nguồn lực để tiếp tục vươn lên mạnh mẽ, phát triển nhanh hơn, bền vững hơn; thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình; đảm bảo công bằng xã hội; gìn giữ môi trường sinh thái…; để người dân có đầy đủ điều kiện phát huy năng lực, giá trị của mình; để trở thành một miền đất “đáng sống” tuy không giàu có nhất về vật chất?

“Câu hỏi đó được đặt ra, được thảo luận sôi nổi ở nhiều nơi và cũng là một tiền đề dẫn tới sáng kiến chung giữa Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới xây dựng "Báo cáo Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ". Sáng kiến này được Chủ tịch Ngân hàng Thế giới và Thủ tướng Chính phủ Việt Nam chính thức cam kết vào tháng 7/2014”, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chia sẻ.

Báo cáo được thực hiện bởi một nhóm các chuyên gia đến từ Bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam, Ngân hàng Thế giới, và nhiều chuyên gia khác từ Việt Nam.

Sau 2 năm, với nhiều tâm sức, Báo cáo Việt Nam 2035 được đánh giá là một báo cáo quan trọng, chứa đựng nhiều vấn đề đặt ra đối với tương lai phát triển bền vững của Việt Nam

Những vấn đề vừa có tính thời sự vừa có tính chiến lược như năng lực cạnh tranh, năng suất lao động, hệ thống sáng tạo, khí hậu môi trường, an sinh xã hội, phân cách giàu nghèo, nông nghiệp - nông thôn, đô thị hóa, quản lý - quản trị... được các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới và của Việt Nam cùng nghiên cứu, trao đổi để đưa ra các đánh giá, phân tích, khuyến nghị có tính khoa học.

Báo cáo cùng những tài liệu chuyên đề trong quá trình xây dựng Báo cáo là tài liệu tham khảo quan trọng cho nghiên cứu hoạch định chính sách phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Ngay trong quá trình xây dựng Báo cáo, nhiều nội dung của Báo cáo đã được tham khảo phục vụ xây dựng các Văn kiện của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII.

Những khuyến nghị trong Báo cáo sẽ được Chính phủ Việt Nam tham khảo trong quá trình hoạch định chính sách, trước hết là trong xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm (2016-2020) và nghiên cứu Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2020-2030.

“Chúng tôi cũng sẽ triển khai cơ chế theo dõi, đánh giá kết quả tham khảo, vận dụng những khuyến nghị của Báo cáo đồng thời tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, cập nhật những vấn đề quan trọng đối với quá trình phát triển”, Phó Thủ tướng cho biết thêm.

Phát biểu tại Lễ công bố, ông Jim Yong Kim, Chủ tịch nhóm Ngân hàng Thế giới chỉ rõ, báo cáo Việt Nam 2035 thể hiện rõ nét mong muốn của lãnh đạo Việt Nam muốn đưa đất nước trở thành một quốc gia hiện đại, công nghiệp hoá sau một thế hệ.

“Tăng năng suất lao động nhanh, bảo vệ môi trường và đổi mới sáng tạo trong hoạt động kinh tế sẽ giúp Việt Nam tăng trưởng nhanh. Phá bỏ rào cản đối với các đối tượng thiệt thòi, cung cấp dịch vụ tốt hơn cho nhóm trung lưu đô thị đang già nhanh sẽ giúp Việt Nam giữ vững được thành tích ấn tượng về bình đẳng và hoà nhập xã hội của mình”, ông Jim Yong Kim nói.

Làm gì để Việt Nam trở thành đất nước đáng sống?

Về nội dung Báo cáo Việt Nam 2035, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho biết, đây là một báo cáo mới công bố nhằm gợi ý các bước đưa Việt Nam trở thành một nước thu nhập trung bình cao trong vòng 2 thập kỷ tới.

"Nước ta đang đứng trước bước ngoặt của cải cách và phát triển. Thời cơ và thuận lợi rất lớn, nhưng thách thức và khó khăn cũng không hề nhỏ. Để đạt được khát vọng hướng tới một Việt Nam thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ, lựa chọn duy nhất của chúng ta là thực hiện cải cách. Nếu không, chúng ta không thể khai thác được cơ hội, cũng không thể vượt qua thách thức, và nguy cơ tụt hậu xa hơn, rơi vào bẫy thu nhập trung bình sẽ khó có thể tránh khỏi. Chúng tôi tin rằng những thế hệ người Việt Nam hiện nay và tương lai chắc chắn có đủ ý chí, bản lĩnh và năng lực để thực hiện thành công công cuộc đổi mới”, Bộ trưởng Bùi Quang Vinh nhấn mạnh.

Để đạt được mục tiêu đầy tham vọng là trở thành nước thu nhập trung bình cao, Việt Nam cần duy trì mức tăng trưởng tối thiểu 7% mỗi năm, để nâng mức thu nhập trung bình lên trên 7.000 USD vào năm 2035 – khoảng 18.000 USD nếu tính theo sức mua tương đương - so với 2.052 USD năm 2014 – khoảng 5.370 USD tính theo sức mua tương đương.

Về giải pháp, Báo cáo tập trung vào ba trụ cột: nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh khu vực kinh tế tư nhân, thúc đẩy công bằng và hoà nhập xã hội và nâng cao hiệu quả khu vực công.

(i) Nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh khu vực kinh tế tư nhân:

Báo cáo đề xuất một số biện pháp tăng cường sức mạnh cho nền kinh tế và khu vực tài chính, trong đó tập trung vào nâng cao hiệu quả quản ly, bảo vệ quyền sử hữu tài sản, và thực thi chính sách cạnh tranh. Báo cáo gợi ý cần các chính sách và đầu tư để hỗ trợ tăng trưởng các ngành công nghiệp có liên quan đến các chuỗi cung ứng toàn cầu, sử dụng khôn ngoan hơn các hiệp định thương mại tự do, kể cả Hiệp định Hợp tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương.

Báo cáo cũng đề xuất cải tiến ngành nông nghiệp – khu vực chiếm gần một nửa lực lượng lao động của cả nước – tăng cường bảo vệ môi trường và tăng cường quy hoạch phát triển sản xuất năng lượng sạch.

(ii) Thúc đẩy công bằng và hoà nhập xã hội:

Đảm bảo hoà nhập xã hội trong quá trình phát triển không phải là việc đơn giản, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hoá, đô thị hoá diễn ra như vũ bão, và đòi hỏi ngày càng cao về lực lượng lao động có tay nghề. Vấn đề nữa là còn tồn tại khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân tộc thiểu số và nhóm đa số tại Việt Nam—nhóm thiểu số chỉ chiếm 15% dân số nhưng chiếm 50% số người nghèo.

Báo cáo kêu gọi Việt Nam tiếp tục tăng cường hoà nhập và công bằng xã hội, tạo nhiều cơ hội hơn cho các nhóm dân tộc thiểu số, người tàn tật và phụ nữ, và cung cấp dịch vụ cho một xã hội trong quá trình già hoá, đô thị hoá và xuất hiện tầng lớp trung lưu.

Để thực hiện ước muốn đó, Việt Nam cần có một nền quản trị tốt, các thể chế hiện đại và một xã hội thượng tôn pháp luật. Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong chương trình hòa nhập xã hội, nhưng các nhóm dân tộc thiểu số vẫn còn nghèo — nhóm thiểu số chỉ chiếm 15% dân số, nhưng chiếm 50% số người nghèo.

(iii) Nâng cao hiệu quả nhà nước:

Báo cáo đưa ra các đề xuất cải thiện quản trị nhằm nâng cao trách nhiệm giải trình và minh bạch, để đảm bảo Việt Nam có hệ thống thể chế mạnh nhằm bắt kịp sự phát triển của đất nước.

Để thực hiện điều đó,cần một hệ thống chính quyền thống nhất hơn với quy định về chức năng kinh tế của nhà nước rõ ràng hơn, giảm vai trò trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất và quy định rõ ranh giới giữa khu vực công và khu vực tư, và tuyển dụng và bổ nhiệm dựa trên năng lực.

Bên cạnh đó, cần tăng cường trách nhiệm giải trình của nhà nước dựa trên chức năng kiểm soát giữa ba nhánh quyền lực và tạo cơ hội cho người dân góp ý về việc cung cấp dịch vụ công của chính phủ./.