AFTA và AEC tác động đến tăng trưởng kinh tế của Đông Nam Á
Khu vực Đông Nam Á vẫn được dự báo có khả năng sẽ phục hồi mạnh mẽ |
Sự hình thành của AFTA và AEC
Cạnh tranh kinh tế trong cộng đồng quốc tế được coi là yếu tố vô cùng quan trọng, bởi khi đó các tổ chức quốc tế thể hiện vai trò của họ trong việc điều tiết quá trình hoạt động kinh tế giữa các quốc gia nhằm duy trì sự ổn định kinh tế. Duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng là vấn đề lâu dài của mọi quốc gia. Có nhiều yếu tố cản trở tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, một trong số đó là khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước. Do đó, các quốc gia cần hợp tác trong các diễn đàn đặc biệt thảo luận cách mỗi quốc gia có thể đáp ứng nhu cầu trong nước qua việc hợp tác với các quốc gia khác.
Trong nỗ lực cải thiện nền kinh tế khu vực, các quốc gia có xu hướng tham gia các tổ chức khu vực. Ở Đông Nam Á, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là một tổ chức khu vực được trao quyền hỗ trợ khu vực. ASEAN tạo ra sự hợp tác trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, việc làm, xóa đói giảm nghèo cho người dân và giảm khoảng cách phát triển trong khu vực. ASEAN có vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế của khu vực Đông Nam Á với một số chiến lược như thành lập AFTA. Trong khi đó, AFTA cũng như AEC có chức năng như một diễn đàn hợp tác nhằm khuyến khích tăng trưởng kinh tế ở các nước trong khu vực, với mục đích khuyến khích tăng trưởng kinh tế quốc gia cho mỗi thành viên tham gia hợp tác khu vực bằng cách tạo hợp tác trong lĩnh vực thương mại, đầu tư, việc làm, xóa đói giảm nghèo và giảm khoảng cách phát triển trong khu vực.
Vai trò của AFTA và AEC trong cải thiện kinh tế Đông Nam Á
Các nước thành viên ASEAN hầu hết là các nền kinh tế đang phát triển. Nhìn chung, các nước đang phát triển đều gặp phải những vấn đề giống nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Điều này khuyến khích nhà nước đàm phán cách thức phù hợp để cùng nhau thúc đẩy nền kinh tế. Để thực hiện mục tiêu này, khu vực ASEAN đã thực hiện một số trọng tâm bao gồm các mô hình hoạt động do cộng đồng quốc tế trong ASEAN thực hiện, bao gồm AFTA. Tuy AFTA được thành lập và thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 4 năm 1992, nhưng các hoạt động chỉ được thực hiện vào năm 2003, nhằm giúp các sản phẩm của ASEAN có sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường toàn cầu.
AEC bắt đầu hoạt động năm 2015 nhưng đã được khởi xướng từ năm 1997 tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 2 ở Kuala Lumpur (Malaysia). Việc tạo ra khu vực hội nhập kinh tế này được hình thành sự khác biệt nền tảng kinh tế giữa các nước trong khu vực không trở thành trở ngại cho xã hội quốc tế trong việc gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước mình. Do đó, trong AEC, các hoạt động kinh tế được vận hành tự do. Chẳng hạn như giải phóng hải quan giữa các nước trong khu vực ASEAN và giải phóng người dân làm việc từ nước này sang nước khác trong khu vực ASEAN. Thương mại tự do trong khu vực tạo ra một mô hình hoạt động xuất nhập khẩu có thể khuyến khích nền kinh tế của mỗi thành viên và khu vực phát triển hơn nữa. Khu vực thương mại cũng tăng cường hợp tác từ bên ngoài khu vực. Hiệu quả tăng trưởng của một số quốc gia thành viên ASEAN đã tăng lên tính từ năm 2011, chẳng hạn như: Indonesia có GDP tăng 11%, Singapore tăng 9%, Thái Lan tăng 8%, Malaysia, Philippines và Việt Nam tăng 5%, Brunei tăng 4%.
AFTA và AEC tác động đến phát triển kinh tế các thành viên ASEAN
Những nỗ lực nhằm tăng trưởng kinh tế ở ASEAN chắc chắn có tác động, cả tích cực và tiêu cực. Việc thiết lập AEC có tác động tích cực đến các nước thành viên ASEAN, giúp khu vực Đông Nam Á có triển vọng kinh tế tốt. Đây là khu vực có tốc độ phát triển kinh tế đứng thứ 2 trên thế giới. Từ góc độ kinh tế và nhân khẩu học, Đông Nam Á là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, và tốc độ tăng trưởng tiêu dùng đạt 4% mỗi năm so với mức chỉ 1,8% của thế giới. Trong khi đó, AEC có vai trò thực hiện hội nhập kinh tế trong khu vực bằng cách hỗ trợ và giám sát tất cả các nước thành viên ASEAN tiến hành hợp tác thương mại như: Hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động có tay nghề cao và dòng vốn tự do hơn, như được nêu trong AEC.
ASEAN có 4 trụ cột đóng vai trò điều tiết hoạt động giữa các thành viên khu vực: Một thị trường duy nhất và dựa trên một nền sản xuất duy nhất được hỗ trợ bởi phân tích tự do; khu vực có khả năng cạnh tranh kinh tế cao; khu vực có sự phát triển kinh tế công bằng thông qua sự tăng trưởng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vai trò của AFTA và AEC có ảnh hưởng tích cực đến xã hội quốc tế phát triển kinh doanh mà không sợ trở ngại. Nếu các hoạt động kinh tế tiếp tục diễn ra tốt đẹp, thì tốc độ tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia cũng tăng lên.
Thực tiễn cho thấy, ngay cả khi nền kinh tế của khu vực Đông Nam Á nói riêng đang phải đối mặt với 3 thách thức đáng kể đối với sự tăng trưởng, như: (i) Việc thắt chặt các điều kiện tài chính đang làm tăng chi phí đi vay của chính phủ và có khả năng ngày càng thắt chặt hơn, khi các ngân hàng trung ương ở các nền kinh tế tiên tiến lớn tiếp tục tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát nhanh nhất trong nhiều thập kỷ dẫn đến khả năng đồng tiền mất giá nhanh chóng có thể làm phức tạp thêm các thách thức chính sách; (ii) Cuộc xung đột Nga-Ukraine tiếp diễn khiến hoạt động kinh tế ở châu Âu suy giảm mạnh và điều này làm giảm thêm nhu cầu của bên ngoài với các mặt hàng xuất khẩu của khu vực; (iii) Chính sách "Zero Covid" nghiêm ngặt của Trung Quốc đã tác động mạnh đến chuỗi cung ứng toàn cầu và gián tiếp làm suy yếu động lực trong các nền kinh tế được kết nối, thì khu vực Đông Nam Á vẫn được dự báo có khả năng sẽ phục hồi mạnh mẽ. Trong đó, Việt Nam - quốc gia đang được hưởng lợi từ tầm quan trọng ngày càng tăng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, hy vọng tốc độ tăng trưởng sẽ đạt khoảng 7% và điều chỉnh nhẹ trong năm 2023; Philippines được dự báo sẽ tăng 6,5% trong năm 2022, trong khi mức tăng trưởng sẽ đạt 5% ở Indonesia và Malaysia.../.
Bình luận