Tại tọa đàm, các lãnh đạo các bộ, ngành, lãnh đạo các địa phương có thế mạnh thu hút đầu tư FDI và đại diện các doanh nghiệp nước ngoài lớn đang đầu tư kinh doanh hiệu quả tại Việt Nam, đều khẳng định về lâu dài, Việt Nam vẫn là điểm đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Chính phủ Việt Nam luôn đồng hành, tạo điều kiện hỗ trợ tốt nhất để DN FDI phát triển
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc (giữa) tại Tọa đàm “COVID-19 và FDI: Tác động và triển vọng. Ảnh: Đức Trung

Đồng hành, chia sẻ khó khăn để cùng vượt qua đại dịch COVID-19

Con số thu hút đầu tư nước ngoài 9 tháng năm 2021 thể hiện sự tin tưởng của nhà đầu tư nước ngoài với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và khẳng định tính hiệu quả trong giải pháp đồng hành, hỗ trợ mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo thời gian qua.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết, khu vực FDI phát triển nhanh và có hiệu quả, trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng của ngân sách, tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm và nâng cao thu nhập của người lao động.

Đại dịch COVID-19 đang tác động hết sức tiêu cực đến khu vực FDI, trong đó có việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, đợt dịch lần thứ 4 đã đánh trực tiếp vào các trung tâm công nghiệp lớn của cả nước như TP. Hồ Chí Minh, Bắc Giang, Bắc Ninh, Đồng Nai, Bình Dương… là những nơi tập trung nhiều doanh nghiệp FDI, khiến các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề, làm đứt gãy chuỗi cung ứng sản xuất, nhiều doanh nghiệp bị đảo lộn sản xuất kinh doanh, có doanh nghiệp phải dừng một phần, thậm chí toàn bộ hoạt động.

Thứ trưởng cho biết, đứng trước thách thức đó, thời gian vừa qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành đã luôn đồng hành, chia sẻ với những khó khăn mà doanh nghiệp đối mặt, luôn nỗ lực hành động vì một mục tiêu cao nhất là phòng, chống dịch hiệu quả, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, đảm bảo hài hòa, hợp lý giữa phòng, chống dịch và triển khai hoạt động với phương châm như Thủ tướng Chính phủ đã nói: “Chống dịch để sản xuất và sản xuất để chống dịch”. Lợi ích thì chúng ta phải hài hòa, rủi ro thì chúng ta chia sẻ.

“Chúng tôi cũng thấy rằng, ở chiều ngược lại, cộng đồng doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp FDI, đã thể hiện tinh thần đoàn kết, chung tay chia sẻ có trách nhiệm với Chính phủ, chính quyền địa phương, hỗ trợ người dân, cộng đồng trong cuộc chiến với COVID-19 bằng nhiều hình thức”, Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc cho hay.

Các doanh nghiệp đã thể hiện tinh thần vượt khó, thích ứng với tình hình mới, duy trì sản xuất, tạo việc làm cho người lao động, đóng góp vào phát triển kinh tế-xã hội.

Trong bối cảnh dịch Covid-19 kéo dài làm gián đoạn chuỗi cung ứng, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, Chính phủ đã có những giải pháp, chính sách để tháo gỡ khó khăn và chia sẻ với các nhà đầu tư nước ngoài, để họ yên tâm đầu tư lâu dài, bền vững tại Việt Nam.

Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập 2 Tổ công tác đặc biệt do 2 Phó Thủ tướng làm Tổ trưởng để: (i) rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và thúc đẩy thực hiện dự án đầu tư; và (ii) về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19.

Mới đây, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 09/9/2021 về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid-19. Chính phủ cũng đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương khẩn trương cụ thể hóa, thống nhất tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn về lộ trình mở cửa sản xuất và các hoạt động kinh tế xã hội ngay trong cuối tháng 9 này.

Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc khẳng định rằng, quan điểm chỉ đạo của Chính phủ là doanh nghiệp là chủ thể, trung tâm; đầu mối giải quyết là các địa phương; Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương sẽ đồng hành, tạo điều kiện hỗ trợ tốt nhất về cơ chế chính sách để doanh nghiệp duy trì, phục hồi và phát triển sản xuất.

Khẳng định Chính phủ Việt Nam luôn nhất quán tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh hoạt động thu hút đầu tư, phát triển kinh tế, Thứ trưởng nhấn mạnh, trong thời điểm khó khăn này, quan điểm đó càng được khẳng định.

Thứ trưởng cho biết, 9 tháng đầu năm 2021, cả nước có 34.141 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 403,19 tỷ USD. Vốn thực hiện ước đạt 245,14 tỷ USD, bằng 60,8% tổng vốn đầu tư. Vốn đăng ký mới có 1.212 dự án (giảm 37,8%), tổng vốn 12,5 tỷ USD (tăng 20,6% so với cùng kỳ). Vốn điều chỉnh có 678 dự án (giảm 15%), tổng vốn tăng 6,4 tỷ USD (tăng 25,6% so với cùng kỳ).

“Con số thu hút đầu tư nước ngoài 9 tháng năm 2021 đã nói lên điều đó. Điều này đã thể hiện sự tin tưởng của nhà đầu tư nước ngoài với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và khẳng định tính hiệu quả trong giải pháp đồng hành, hỗ trợ mà Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo trong thời gian vừa qua”, Thứ trưởng Ngọc nhấn mạnh.

Việt Nam thuộc nhóm bị ít tác động so với các nước trong khu vực

Mặc dù, do hạn chế đi lại toàn cầu và các biện pháp chống dịch, các dự án quy mô nhỏ và các giao dịch M&A vào Việt Nam trong 2 năm 2020-2021 bị ảnh hưởng lớn, nhưng, Thứ trưởng cho biết, số lượng các dự án quy mô lớn (trên 50 triệu USD) vẫn duy trì tăng mạnh, khoảng 57% so với các năm trước. “Khiến cho dòng vốn FDI vào Việt Nam vẫn thuộc nhóm bị ít tác động so với các nước trong khu vực và toàn cầu nói chung”, Thứ trưởng cho biết.

Nhà đầu tư nước ngoài vẫn đánh giá cao môi trường đầu tư của Việt Nam. Dẫn số liệu cuộc khảo sát hơn 500 tập đoàn, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp cùng Liên minh Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF), các hiệp hội doanh nghiệp thành viên thực hiện, Thứ trưởng Ngọc cho hay, nhìn chung, đại dịch Covid-19 có tác động tiêu cực đến doanh nghiệp.

Tuy nhiên, cộng đồng doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vẫn đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ trong việc ứng phó với dịch bệnh, bày tỏ sự lạc quan vào khả năng phục hồi kinh tế của Việt Nam và cam kết tiếp tục đầu tư, kinh doanh lâu dài, nhất là khi Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xây dựng lộ trình thích ứng an toàn, xác định quan điểm mới về chống dịch.

Cụ thể, doanh nghiệp châu Âu đánh giá tích cực và lạc quan về môi trường đầu tư Việt Nam trong năm 2021, trong đó có 67% đánh giá tích cực về triển vọng môi trường kinh doanh Việt Nam.

Doanh nghiệp Nhật Bản bày tỏ sự lạc quan vào khả năng kinh tế Việt Nam phục hồi sớm trong năm 2021. trong đó, 47% có kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh tại Việt Nam.

Doanh nghiệp Hàn Quốc đều có kế hoạch đầu tư mới tại Việt Nam, trong đó, có 61,9% cam kết đầu tư mở rộng đầu tư.

Phần lớn doanh nghiệp Hoa Kỳ đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ trong việc ứng phó với dịch bệnh, tin tưởng Việt Nam sẽ sớm khống chế dịch bệnh.

Những tín hiệu tích cực này đã cho thấy, sự lạc quan, tin tưởng về khả năng phục hồi phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ của Việt Nam thời gian tới. Đồng thời, khẳng định Việt Nam vẫn sẽ là điểm đến đầu tư an toàn, hấp dẫn và tiềm năng đối với các nhà nhà đầu tư nước ngoài.

“Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải tiếp tục nỗ lực để nhanh chóng kiểm soát dịch bệnh, sớm đưa hoạt động sản xuất kinh doanh trở lại bình thường, để tránh gián đoạn, đứt gãy chuỗi cung ứng”, Thứ trưởng nhấn mạnh.

Thứ trưởng cũng khẳng định, quan điểm xuyên suốt của Đảng và Chính phủ từ trước đến nay là ngoại lực quan trọng nhưng nội lực mới là yếu tố quyết định. Ban chấp hành Trung ương Đảng đã có Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó xác định kinh tế tư nhân là nền tảng cơ sở, động lực quan trọng của nền kinh tế.

“Chúng ta thúc đẩy hợp tác đầu tư nước ngoài nhưng cũng tập trung ưu tiên hỗ trợ cho doanh nghiệp trong nước phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu; hướng tới mục tiêu xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ như đã đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị về về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác ĐTNN đến năm 2030. Quan điểm là không thu hút đầu tư bằng mọi giá, mà chú trọng vào chất lượng, hiệu quả và sự phát triển bền vững”, Thứ trưởng Ngọc khẳng định.

Theo đó, Việt Nam ưu tiên thu hút các dự án FDI từ xu hướng đa dạng hóa và tái định vị sản xuất thuộc các ngành công nghệ cao; đổi mới sáng tạo; có sự lan tỏa, trong đó nhà đầu tư cam kết hợp tác, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi sản xuất, gắn với hợp tác đào tạo nhân lực; nghiên cứu và phát triển; thúc đẩy kinh tế số và đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững kinh tế xã hội của Việt Nam.

Việt Nam cũng đã đạt được những thành công nhất định với “mục tiêu kép” về phòng chống dịch Covid-19 và phát triển kinh tế, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, là điểm đến tiềm năng trong chính sách đa dạng hóa nguồn cung ứng, chuyển dịch chuỗi sản xuất của các đối tác lớn.

“Với chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng, sự quyết liệt của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, tôi tin tưởng chắc chắn rằng, sự nghiệp thu hút FDI sẽ có nhiều chuyển biến mạnh mẽ và FDI tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam những năm tới”, Thứ trưởng khẳng định.

Chương trình phục hồi kinh tế sau dịch như thế nào?

Tại Tọa đàm, Thứ trưởng Nguyễn Thị Bích Ngọc cho biết, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế giai đoạn 2022-2023 đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến của các bộ, ngành, địa phương và đang khẩn trương hoàn thiện dự thảo Chương trình, dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 9/2021.

Trong quá trình xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu nhiều đề xuất xác đáng của cộng đồng doanh nghiệp nhằm bảo đảm đề xuất các giải pháp, chính sách hỗ trợ hiệu quả, thiết thực cho doanh nghiệp.

Chương trình hướng tới các mục tiêu chủ yếu sau: (i) bắt kịp, tận dụng cơ hội từ xu hướng phục hồi nhanh của các nền kinh tế lớn; (ii) thúc đẩy cải cách cơ cấu, nâng cao năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh, năng lực nội tại, khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc bên ngoài; (iii) góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện 3 đột phá chiến lược và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; (iv) hỗ trợ tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động và nâng cao thu nhập bền vững cho người lao động.

Các chính sách hỗ trợ dự kiến tập trung vào nhóm đối tượng doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh, người lao động trong các ngành, lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh Covid-19 và có khả năng phục hồi nhanh chóng như: du lịch, lưu trú và ăn uống, chế biến nông sản, thủy sản, thúc đẩy chuyển đổi số, kinh tế số.

Về lộ trình mở cửa, Thứ trưởng cho biết, hiện nay Bộ Y tế đang xây dựng Hướng dẫn lộ trình trở lại trạng thái bình thường mới và triển khai các hoạt động kinh tế, xã hội đảm bảo an toàn phòng, chống dịch. Trong đó, xác định các tiêu chí dựa trên tỷ lệ tiêm vắc-xin, mức độ nguy cơ lây lan dịch bệnh và năng lực của hệ thống y tế để xây dựng biện pháp phòng, chống dịch bệnh phù hợp, từng bước mở cửa lại nền kinh tế./.


Những cách làm hay của địa phương

Chính phủ Việt Nam luôn đồng hành, tạo điều kiện hỗ trợ tốt nhất để DN FDI phát triển

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Nguyễn Thị Hoàng. Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Tại Tọa đàm, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai Nguyễn Thị Hoàng cho biết, trong 9 tháng đầu năm 2021, tổng số vốn đầu tư thu hút, cấp mới của Tỉnh tăng 25% so với cùng kỳ và đạt 88% so với kế hoạch năm 2021. Trong đó cấp mới 42 dự án với tổng vốn đăng ký tăng 50,1% so với cùng kỳ và đạt 62,7% so với kế hoạch năm 2021.

Đa phần các dự án là sản xuất công nghiệp phụ trợ, tập trung tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Dẫn đầu vẫn là các dự án đầu tư từ Hàn Quốc, tiếp theo là Nhật Bản, Singapore.

Thời gian qua, Đồng Nai là một trong những địa phương có lượng lớn dòng vốn FDI và cũng rút ra một số bài học kinh nghiệm trong thu hút đầu tư FDI:

Thứ nhất, hằng năm UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành xây dựng các kế hoạch thu hút đầu tư nước ngoài tại các thị trường tiềm năng và nơi có nhiều nhà đầu tư có tiềm lực về vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm để giới thiệu đến tỉnh Đồng Nai.

Trong năm 2021, từ tháng 4 đợt dịch lần thứ 4 bùng phát, tất cả những việc để xúc tiến đầu tư nước ngoài của tỉnh Đồng Nai cũng bị dừng lại. “Tuy nhiên, chúng tôi kết nối với các nhà đầu tư đã đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, tiếp tục gặp gỡ họ. Chính vì vậy, những tháng đầu năm, vốn đầu tư FDI mới đạt được kết quả nêu trên”, bà Hoàng chia sẻ.

Thứ hai, tỉnh quan tâm xây dựng và tổ chức các hội nghị để kết nối các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.

“Ở các hội nghị, chúng tôi lắng nghe các khó khăn cũng như kiến nghị của doanh nghiệp. Chỉ đạo các sở, ban, ngành cùng nhau gỡ khó cho các doanh nghiệp”, lãnh đạo tỉnh Đồng Nai nói.

Thứ ba, bà Hoàng cho biết, tỉnh Đồng Nai cũng thường xuyên phối hợp với Cục Kinh tế và Công nghiệp Nhật Bản để xây dựng, mở rộng hệ thống điều phối viên hỗ trợ doanh nghiệp Nhật Bản và doanh nghiệp Việt Nam trong ngành công nghiệp hỗ trợ, góp phần phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ của tỉnh

Việc phát triển các khu công nghiệp gắn liền với phát triển đồng bộ với hệ thống giao thông đường bộ cũng như hàng không. Có như vậy mới thu hút được các nhà đầu tư FDI và vốn để đầu tư.

Chính phủ Việt Nam luôn đồng hành, tạo điều kiện hỗ trợ tốt nhất để DN FDI phát triển

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Vương Quốc Tuấn. Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Chia sẻ về kinh nghiệm thu hút FDI của tỉnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Vương Quốc Tuấn cho biết, gần đây, Bắc Ninh có mô hình mới, với thương hiệu “2 ít , 3 cao, 4 sẵn sàng” là bước đi cụ thể hoá Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.

Tỉnh đặt tiêu chí “2 ít”, đó là ít đất, ít dùng lao động vì đặc điểm Bắc Ninh có diện tích đất tự nhiên nhỏ nhất. Do đó, Bắc Ninh tập trung khuyến khích các dự án công nghệ cao, tiết kiệm đất, dùng ít lao động.

Tỉnh cũng có tiêu chí “3 cao”, tức là suất vốn đầu tư các dự án FDI cao, tăng cường tính lan toả dự án. Hai là công nghệ cao, tức là tỉnh đặt mục tiêu ưu tiên các dự án FDI công nghệ cao, gắn với giải quyết vấn đề gây ô nhiễm môi trường. Ba là hiệu quả cao, tập trung làm sao thu hút nguồn lực cho ngân sách, góp phần đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.

“Chúng tôi có “4 sẵn sàng”: Trước hết là tập trung sẵn sàng mặt bằng, tạo cho các nhà đầu tư đến với Bắc Ninh có điều kiện tốt nhất. Hai là sẵn sàng nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu đầu tư. Ba là sẵn sàng cơ chế, cải cách thủ tục, chính sách ưu đãi, tận dụng tối đa chính sách ưu đãi về pháp luật. Bốn là sẵn sàng hỗ trợ, giải quyết mọi khó khăn. Các DN, nhà đầu tư đều được giải quyết qua cơ quan cao nhất của tỉnh, nhanh chóng thuận lợi”, ông Tuấn cho biết thêm.

Do đó, trong những năm qua, hiệu quả thu hút đầu tư ngày càng cao lên. Bắc Ninh tập trung thu hút FDI đầu tư cho công nghệ cao, với công nghệ điện tử là mũi nhọn. Trong tổng vốn đầu tư, cơ cấu tỷ trọng đầu tư FDI trong lĩnh vực công nghệ chiếm tới 86% tổng vốn FDI. Vì vậy, Bắc Ninh vươn lên là địa phương phát triển công nghệ đứng đầu toàn quốc, kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 2, thu hút đầu tư đứng thứ 6.

Với quá trình nỗ lực của cộng đồng DN, cũng như chủ trương cải thiện thu hút đầu tư của Bắc Ninh vừa qua, tỉnh tạo niềm tin hấp dẫn các nhà đầu tư lớn, lan toả với các nhà đầu tư trong nước.

Qua thực tiễn Bắc Ninh áp dụng chính sách, chúng tôi đã hỗ trợ, tạo ra các nhà cung cấp “vendor” cấp 1, cấp 2, cấp 3 cho các nhà đầu tư lớn trong nước cũng như cho các nhà đầu tư của tỉnh.

Đáng chú ý, vừa rồi Bộ Công Thương, UBND tỉnh Bắc Ninh, Samsung Việt Nam đã tăng cường phối hợp, hiệu quả kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, đáp ứng nhu cầu các chuỗi vendor cung cấp cho các DN lớn như Samsung, thực hiện thành công hiệu quả…/.