Các ngành công nghiệp da giày, dệt may ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19

Theo Hiệp hội Da giày Việt Nam, các doanh nghiệp da giầy bị thiệt hại lớn do phải ngừng hoặc giảm sản xuất, bị khách hàng hủy đơn hàng xuất khẩu, trong khi vẫn phải chịu các chi phí duy trì nhà máy, trả lương cho người lao động...

Từ đầu tháng 5/2021 đến nay, đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ 4 diễn biến phức tạp tại các tỉnh phía Nam, đã ảnh hưởng đến sản xuất của các doanh nghiệp da giầy trong các tháng cuối năm 2021.

Việc thực hiện giãn cách xã hội kéo dài theo chỉ thị 16 của Chính phủ tại các tỉnh phía nam đã khiến 80% các nhà máy sản xuất da giầy tại TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, An Giang, Kiên Giang… là những nơi tập trung nhiều doanh nghiệp da giầy lớn trong các khu công nghiệp, phải ngừng sản xuất do không đủ điều kiện thực hiện quy chế “3 tại chỗ” và “Một cung đường, hai điểm đến”. Tại các địa phương miền Trung và miền Bắc, các doanh nghiệp da giầy chỉ hoạt động với công suất 50%-70 %, do giãn cách xã hội và thiếu lao động.

Đối với các doanh nghiệp còn hoạt động, trong bối cảnh như vậy đã buộc phải giảm sản lượng do phải giảm số lao động làm việc để thực hiện giãn cách, đồng thời phát sinh nhiều chi phí do đứt gẫy chuỗi cung nguyên phụ liệu, chi phí phòng chống Covid-19 (xét nghiệm, tiêm chủng, lo ăn, ở 3 tại chỗ cho người lao động). Nhiều lao động bỏ về quê tránh lây lan dịch bệnh và khó khăn trong việc đi lại, di chuyển giữa các địa phương do phong tỏa, giản cách xã hội.

Cùng với đó, tình trạng thiếu container rỗng, chi phí logistics và vận chuyển tàu biển quốc tế tăng cao (gấp 5-10 lần) xảy ra từ năm 2020 chưa trở về bình thường, cùng với chi phí nhiên liệu và giá nguyên phụ liệu nhập khẩu tăng cao đã ảnh hưởng nhiều tới sản xuất, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuât khẩu.

Theo Hiệp hội Da giày Việt Nam, các doanh nghiệp da giầy bị thiệt hại lớn do phải ngừng/giảm sản xuất, bị khách hàng hủy đơn hàng xuất khẩu, trong khi vẫn phải chịu các chi phí duy trì nhà máy, trả lương cho người lao động.

Năm 2020, tổng kim ngạch xuất khẩu da giầy của Việt Nam giảm 10% so với năm 2019. Giảm mạnh nhất tại Mỹ La tinh (-25,4%), EU (-15.4%) và Bắc Mỹ (-8.4%), châu Á (-5,8%), phản ánh tác động tiêu cực khác nhau của đại dịch Covid-19 tại các châu lục.

Doanh nghiệp cần khắc phục tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng, chờ cơ hội phục hồi

Trong 7 tháng đầu năm 2021, tổng kim ngạch xuất khẩu da giầy đạt 13,78 tỷ USD, tăng 8,3%, trong đó xuất khẩu giầy dép đạt 11,80 tỷ USD tăng 11.5% và xuất khẩu túi xách đạt 1,97 tỷ USD giảm 7.5% so với cùng kỳ năm 2020 (Bảng 6). Xuất khẩu của doanh nghiệp FDI chiếm 79,8%, trong đó giầy dép chiếm 81,2% và túi xách 71,6% (Bảng 5).

Tại các châu lục, tổng kim ngạch xuất khẩu da giầy sang Bắc Mỹ tăng 15,4%, trong đó giầy dép tăng 20,1%, túi xách giảm 5,3%. Xuất khẩu da giầy sang Châu Âu tăng 5,1%, trong đó giầy dép tăng 7,3%, túi xách giảm 6,9%. Xuất khẩu da giầy sang châu Á giảm nhẹ 0,6%, trong đó giầy dép tăng 3,0%, còn túi xách giảm 18,2%.

Trong khi đó, theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, dịch Covid-19 đã làm thay đổi, đảo lộn cả ngành công nghiệp dệt may. Trong năm 2020, ảnh hưởng dịch COVID-19, sức mua giảm, các đối tác nước ngoài yêu cầu giảm giá 20%-30%. Nhiều doanh nghiệp muốn duy trì công ăn việc làm cho người lao động nên vẫn tổ chức sản xuất, vẫn chấp nhận đơn hàng với giá thấp, thậm chí đơn hàng nhận được đến cuối năm 2020.

Bước sang đầu năm 2021 ngành may mặc đã hồi phục, sức mua toàn cầu tăng, đơn hàng nhiều với giá tốt hơn, nhưng DN may mặc đã phải chịu áp lực lớn, đó là giá cũ đã ký - giá thấp, cho năm 2021.

Không chỉ vậy, để có được đơn hàng DN dệt may cũng phải chịu rất nhiều áp lực lớn. Cụ thể, các nhãn hàng đã đưa ra những tiêu chuẩn đánh giá DN rất khắt khe, nếu DN nào không đáp ứng được thì họ rút đơn hàng. Về việc thanh toán, các nhãn hàng thanh toán bằng phương thức trả chậm 1-3 tháng, thậm chí có những khách hàng yêu cầu thanh toán trả chậm 6 tháng.

Điều này nằm ngoài dự tính của DN sản xuất trong nước bởi khả năng rủi ro lớn, nhưng nếu DN không chấp nhận thì họ không đặt hàng nữa.

Bên cạnh đó, một số mặt hàng chủ lực có thế mạnh của Việt Nam nhưng ảnh hưởng bởi dịch COVID -19 từ năm 2020, đến nay vẫn chưa khôi phục được, đó là veston cao cấp và sơ mi. Tỷ lệ đặt hàng veston quay trở lại thị trường Việt Nam chỉ đạt khoảng 27%, 73% chưa quay trở lại trong khi giá trị đầu tư công nghệ cho sản xuất veston rất lớn.

Mối lo đến từ phía cung và cầu

Theo Cục Công nghiệp - Bộ Công thương, những khó khăn, lo ngại của cộng đồng doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay đến từ cả phía cung và cầu.

Về phía cung, khó khăn lớn nhất về phía cung hiện nay của các doanh nghiệp là việc không bảo đảm được quá trình lưu thông, vận chuyển hàng hóa thông suốt phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ hàng hóa do các quy định về phòng dịch phức tạp và không thống nhất giữa nhiều địa phương.

Đặc trưng của ngành công nghiệp là tính kết nối sản xuất theo chuỗi không phân biệt địa giới hành chính, do đó, các khó khăn về lưu thông, vận chuyển hàng hóa do yêu cầu phòng dịch sẽ dẫn đến nguy cơ làm đứt gãy chuỗi cung ứng – trong đó đặc biệt là chuỗi cung ứng lao động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đầu vào sản xuất của doanh nghiệp.

Do đó, một số quy định về phòng chống dịch bệnh cần phải được điều chỉnh, sửa đổi để đảm bảo mục tiêu vừa duy trì sản xuất cho doanh nghiệp, vừa bảo đảm sức khỏe, an toàn tính mạng cho người lao động và cộng đồng.

Về phía cầu, dự báo trong thời gian tới, do ảnh hưởng của dịch bệnh và các quy định của nhiều địa phương về giãn cách xã hội, đơn hàng trong nước của nhiều ngành sản xuất như ô tô, cơ khí, thép… sẽ sụt giảm nghiêm trọng.

Đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ đạo như điện tử, dệt may và da – giày, các doanh nghiệp có thể có thêm các đơn hàng xuất khẩu mới như đã nêu. “Tuy nhiên, nếu không sớm có các giải pháp giúp doanh nghiệp khắc phục tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng trong nước, sớm quay trở lại sản xuất ngay bây giờ, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nguy cơ khách hàng quốc tế sẽ dừng, huỷ đơn hàng để chuyển sang nước khác, và đến khi dịch được kiểm soát, doanh nghiệp khó có thể nối lại các mối quan hệ kinh doanh đã mất”, Cục Công nghiệp lưu ý.

DN cần đặc biệt lưu ý các biện pháp phòng tránh Covid-19, đón cơ hội phục hồi

Kinh tế thế giới dự báo sẽ khởi sắc trở lại nhờ chiến lược tiêm chủng vaccine Covid-19 được thực hiện đồng loạt trên toàn cầu, từ đó, thương mại hàng hóa toàn cầu hồi phục nhanh. Các nền kinh tế lớn của thế giới là Mỹ và EU mở cửa trở lại, thị trường tiêu dùng được phục hồi mạnh mẽ. Nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như điện tử, dệt may, da – giày, chế biến nông sản, thủy sản… sẽ tăng mạnh trở lại.

Do vậy, Bộ Công thương cho rằng, việc tận dụng cơ hội này của Việt Nam trong việc giành được các đơn hàng lớn để phục hồi sản xuất trong nước trong bối cảnh dịch bệnh trong thời gian tới là hết sức quan trọng.

Trong tình hình hiện nay, doanh nghiệp cần tiết giảm chi phí, chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện và lực lượng lao động, để sau khi đại dịch được khống chế có thể phục hồi ngay sản xuất và xuất khẩu, tận dụng tốt các ưu đãi từ các hiệp định FTA (nhất là Hiệp định CPTPP và EVFTA). Ngoài ra, doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý các biện pháp phòng tránh Covid-19 theo hướng dẫn của Chính phủ và các địa phương đối với các khu công nghiệp./.