Nâng cao hiệu quả quản lý và phát triển các KCN, KKT Việt Nam

ông Lê Thành Quân, Vụ trưởng Vụ Quản lý các KKT (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) phát biểu tại Hội nghị

PV: Thưa ông, xin ông cho biết những thành tựu mà các KCN, KKT đã được trong hơn 30 năm xây dựng và phát triển?

Vụ trưởng Lê Thành Quân: Trong hơn 30 năm hình thành và phát triển các khu công nghiệp (KCN), 18 năm phát triển các khu kinh tế (KKT), việc phát triển các KCN, KKT được xác định là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược, định hướng thu hút đầu tư và đã đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Qua các thời kỳ, Đảng, Nhà nước đã có các chủ trương, đường lối, chính sách để định hướng cho sự phát triển các KCN, KKT. Các cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương đã quan tâm chỉ đạo, tích cực để cụ thể hóa các chủ trương, chính sách, tạo điều kiện ngày càng thuận lợi cho các KCN, KKT hoạt động.

Trên cơ sở đó, đến nay, hệ thống KCN, KKT trong cả nước có mặt ở 61/63 tỉnh, thành phố với 403 KCN, 18 KKT ven biển và 26 KKT cửa khẩu được thành lập, đã thu hút được lượng vốn đầu tư lớn, bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước nói chung cũng như các địa phương nói riêng.

Các KCN, KKT đã thu hút được hơn 10 nghìn dự án trong nước và gần 11 nghìn dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký tương ứng khoảng 340 tỷ USD (trong đó tổng vốn đầu tư FDI là khoảng 230 tỷ USD). Những năm gần đây, trung bình hàng năm, vốn FDI trong KCN, KKT chiếm khoảng 35-40% tổng vốn FDI đăng ký tăng thêm của cả nước; nếu tính riêng trong lĩnh vực chế biến, chế tạo thì vốn FDI trong KCN, KKT chiếm 70-80% tổng vốn đăng ký cả nước. Đồng thời, KCN, KKT đã thực sự trở thành các khu vực trọng điểm thu hút các nguồn vốn đầu tư và dự án lớn trong và ngoài nước, hiện là điểm đến của nhiều tập đoàn hàng đầu như: Samsung, Canon, LG, Sumitomo, Foxconn, VSIP… Nhiều doanh nghiệp trong nước với khởi đầu là nhà đầu tư phát triển và kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp đã phát triển thành những tập đoàn đầu tư đa ngành, đa lĩnh vực, dần vươn tới các thị trường ngoài nước, góp phần khẳng định vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế như Phú Mỹ 3, Viglacera, Trường Hải, Becamex, Sonadezi, Kinh Bắc… Đây là những đóng góp đáng ghi nhận của các KCN, KKT về thu hút đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh.

Hơn thế nữa, các doanh nghiệp trong KCN, KKT ngày càng đóng vai trò quan trọng trong tổng thu ngân sách, tạo việc làm, góp phần nâng cao sức cạnh tranh, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam, nhất là việc tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo động lực đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp trong nước.

Toàn cảnh Hội nghị Câu lạc bộ
Toàn cảnh Hội nghị Câu lạc bộ

PV: Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương về KCN và KKT, ông có đánh giá như thế nào về thực trạng phát triển các KCN, KKT tại Việt Nam và nhiệm vụ, giải pháp phát triển các KCN, KKT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư?

Vụ trưởng Lê Thành Quân: Hiện nay trên thế giới, các mô hình KCN, KKT tiếp tục được xác định là một mô hình hiệu quả để phát triển công nghiệp và thu hút đầu tư, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, các mô hình đang có sự thay đổi về động lực phát triển, theo đó các mô hình khu truyền thống hướng đến xuất khẩu và dựa chủ yếu vào ưu đãi về tài chính đang được chuyển đổi mạnh mẽ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh dựa trên: mô hình quản lý tiên tiến; hợp tác, cộng sinh công nghiệp để sử dụng hiệu quả nguyên vật liệu, năng lượng, tài nguyên, chia sẻ dịch vụ dùng chung. Bên cạnh đó, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 thúc đẩy chuyển đổi mô hình sản xuất, hợp tác kinh doanh, chuỗi giá trị toàn cầu; phương thức điều hành, tổ chức và huy động nguồn lực của doanh nghiệp, chuyển đổi doanh nghiệp từ số hóa đơn giản sang hình thức đổi mới sáng tạo dựa trên sự kết hợp nhiều loại công nghệ. Các yếu tố này sẽ tác động đến mô hình, định hướng phát triển của KCN, KKT ở Việt Nam trong thời gian tới.

Tại Việt Nam, bối cảnh phát triển các KCN, KKT cũng đã có những thay đổi với thuận lợi và khó khăn đan xen. Trong đó, bối cảnh trong nước hiện nay tạo thuận lợi cơ bản cho sự phát triển của KCN, KKT như: Môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng hoàn thiện; cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nhất là đường giao thông kết nối vùng, với thị trường quốc tế được nâng cấp và phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh; vị thế quốc tế của Việt Nam được nâng lên và thị trường xuất khẩu được rộng mở thông qua các Hiệp định tự do thương mại đa phương, song phương và nguồn lao động có khả năng thích ứng tốt với những thay đổi khoa học và công nghệ.

Tuy nhiên, việc phát triển KCN, KKT theo chiều rộng gặp khó khăn do nguồn lực về lao động, đất đai, tài nguyên đã tới hạn trong khi năng suất lao động, hiệu quả khai thác tài nguyên chưa cao; chưa đảm bảo hài hòa giữa phát triển kinh tế với yêu cầu về bảo vệ môi trường, đảm bảo an sinh xã hội; duy trì lợi thế cạnh tranh của KCN, KKT trong điều kiện các ưu đãi về thuế, đất đai đang có xu hướng giảm dần; liên kết và hợp tác sản xuất công nghiệp trong KCN, KKT của Việt còn hạn chế. Do vậy, việc phát triển KCN, KKT cần có chính sách để tận dụng được cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và nâng cao hiệu quả thu hút và hợp tác đầu tư nước ngoài theo Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Nghị quyết XIII của Đảng vừa qua đã thông qua định hướng và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2025, 2030 và 2045 với mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đến năm 2025, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt 50%. Các định hướng, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong thời gian gần đây đặt ra yêu cầu về nâng cao hiệu quả phát triển các KCN, KKT theo hướng phát triển bền vững và đổi mới mô hình phát triển, hiệu quả sử dụng đất.

Việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách về KCN, KKT, đặc biệt là hoàn thiện thể chế, chính sách để đảm bảo KCN, KKT tiếp tục đóng vai trò là mô hình quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội là yêu cầu cấp thiết. Với vai trò cơ quan đầu mối, tham mưu về quản lý nhà nước đối với KCN, KKT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã và đang tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về phát triển KCN, KKT, trong đó xác định một số định hướng phát triển như sau:

Một là, việc phát triển KCN, KKT là mô hình, giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, hướng tới công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại, hài hòa giữa các vùng miền, ngành, nghề.

Hai là, đổi mới và đa dạng hóa các loại hình KCN, KKT để thích ứng với yêu cầu trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế; đảm bảo sức hấp dẫn, cạnh tranh quốc tế của KCN, KKT trong thu hút, hợp tác đầu tư, trong đó lấy đổi mới mô hình phát triển, phương thức quản lý tiên tiến, thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong KCN, KKT làm nền tảng.

Ba là, phát triển kết cấu hạ tầng và thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong KCN, KKT phải đảm bảo đồng bộ, hài hòa về kinh tế, xã hội, môi trường; gắn kết chặt chẽ với đảm bảo quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn, an sinh xã hội và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động; thực hiện các cam kết quốc tế về tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.

Bốn là, thu hút đầu tư vào KCN, KKT có chọn lọc, phù hợp với yêu cầu, tiềm năng phát triển của địa phương, vùng; ưu tiên dự án đầu tư có công nghệ hiện đại, có hợp tác chuyển giao công nghệ, đảm bảo chất lượng, hiệu quả sử dụng tài nguyên và lao động, có giá trị gia tăng cao và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, thích ứng với Cách mạng Công nghiệp 4.0.

Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước, vai trò tiên phong và sáng tạo của công đoàn các cấp trong bảo vệ quyền lợi của người lao động, đặc biệt là trong quá trình thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; vai trò phản biện, giám sát của các tổ chức chính trị, xã hội; phát huy sự năng động, hiệu quả của nhà đầu tư, doanh nghiệp và các cấp, các ngành trong phát triển KCN, KKT.

Tổ hợp nhà máy sản xuất ô tô, xe máy điện VinFast được xây dựng tại Khu công nghiệp Đình Vũ – Cát Hải (Hải Phòng)
Tổ hợp nhà máy sản xuất ô tô, xe máy điện VinFast được xây dựng tại Khu công nghiệp Đình Vũ – Cát Hải (Hải Phòng)

PV: Thời gian gần đây Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 35/2022/NĐ-CP quy định về quản lý các KCN và KKT. Nghị định này được đánh giá xây dựng hoàn thiện hơn, bộc lộ rõ tính ưu việt của Nghị định so với các Nghị định trước đó. Xin ông chia sẻ rõ hơn về các nội dung chính của Nghị định số 35/2022/NĐ-CP?

Vụ trưởng Lê Thành Quân: Vụ Quản lý các KKT với vai trò là cơ quan tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện chức năng quản lý nhà nước về KCN, KKT; đồng thời là đầu mối giúp Bộ trưởng nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến phát triển các KCN, KKT.

Vừa qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28 tháng 5 năm 2022 quy định về quản lý KCN, KKT. Nghị định gồm 08 Chương, 76 Điều quy định các nội dung chính như sau:

Một là, hoàn thiện quy trình quy hoạch, đầu tư hạ tầng, thành lập KCN, KKT và các điều kiện có liên quan: Nghị định bãi bỏ quy định về lập, điều chỉnh, bổ sung và phê duyệt quy hoạch phát triển KCN, KKT và thay thế bằng quy định về phương hướng xây dựng, phương án phát triển hệ thống KCN, KKT trong quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh để đảm bảo tính đồng bộ với quy định của pháp luật về quy hoạch; bãi bỏ thủ tục thành lập KCN nhằm giảm bớt thủ tục hành chính và hoàn thiện trình tự, thủ tục, điều kiện đầu tư hạ tầng KCN (tỷ lệ lấp đầy, quy mô KCN, chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa, năng lực của nhà đầu tư và một số điều kiện khác).

Hai là, bảo đảm sự cân đối về phát triển KCN, KKT giữa các địa phương: Nghị định quy định không áp dụng điều kiện về tỷ lệ lấp đầy 60% trong quá trình xem xét chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các dự án hạ tầng KCN trong các trường hợp sau đây: (i) các địa phương có diện tích KCN dưới 1.000 ha; (ii) KCN thuộc địa bàn ưu đãi đầu tư, KCN trong KKT; (iii) KCN hoạt động theo các loại hình KCN mới. Quy định nêu trên nhằm khuyến khích sự phát triển của KCN, KKT đối với các địa phương còn khó khăn trong công tác thu hút đầu tư. Đối với với những địa phương có lợi thế thu hút đầu tư và đã có hệ thống KCN phát triển, cần đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển các loại hình KCN mới, thân thiện với môi trường.

Ba là, kiểm soát việc thành lập KCN trong thời gian tới, sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai, tránh tình trạng phát triển tràn lan các KCN: Nghị định quy định về diện tích và việc phân kỳ đầu tư KCN. Cụ thể, KCN có quy mô diện tích quy hoạch trên 500 ha phải được phân kỳ đầu tư theo các giai đoạn, mỗi giai đoạn không quá 500 ha. Trường hợp KCN thu hút các dự án đầu tư thực hiện cụm liên kết ngành với tổng vốn đầu tư của các dự án trong cụm liên kết ngành tối thiểu tương đương 02 tỷ đô la Mỹ thì giai đoạn đầu không quá 1.000 ha.

Bốn là, khuyến khích phát triển loại hình KCN, KKT mới: Nghị định bổ sung loại hình KCN chuyên ngành, KCN công nghệ cao, KKT chuyên biệt, khu phi thuế quan trong KKT; bổ sung các quy định nhằm làm rõ chính sách hỗ trợ và hợp tác phát triển, tiêu chí xác định, ưu đãi, chứng nhận, trình tự, thủ tục đăng ký chứng nhận KCN sinh thái; đồng thời, quy định cụ thể các chính sách ưu đãi đối với các loại hình KCN mới trong đó quy định không áp dụng điều kiện về tỷ lệ lấp đầy khi xem xét, chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các loại hình KCN này.

Năm là, hỗ trợ tối đa để các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, các doanh nghiệp khác thuộc diện được ưu tiên, hỗ trợ có thể thuê lại đất trong KCN: Nghị định quy định bắt buộc phải dành một phần diện tích trong KCN cho các cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư (tối thiểu 5 ha đất công nghiệp hoặc tối thiểu 3% tổng diện tích đất công nghiệp). Giá cho thuê đất, giá cho thuê lại đất và các loại phí sử dụng hạ tầng đối với phần diện tích này tối đa không quá70% mức giá và các loại phí sử dụng hạ tầng thực tế tại thời điểm cho thuê, cho thuê lại.

Sáu là, giải quyết tối đa việc quy hoạch, xây dựng nhà ở và công trình công cộng cho người lao động làm việc trong KCN: Nghị định yêu cầu các địa phương phải xác định quỹ đất để quy hoạch xây dựng nhà ở, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động làm việc trong các KCN ngay từ bước quy hoạch; quy định các điều kiện liên quan đến việc bố trí quy hoạch, đầu tư xây dựng khu nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho người lao động trước khi dự án KCN, KCN mở rộng được chấp thuận chủ trương đầu tư.

Nghị định bổ sung quy định về việc xây dựng công trình dịch vụ, tiện ích công cộng, cơ sở lưu trú cho người lao động làm việc trong KCN trên phần đất dịchvụ trong KCN.

Bảy là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước: Nghị định đã bổ sung các quy định liên quan đến hệ thống thông tin quốc gia về KCN, KKT. Đây sẽ là một trong những công cụ chính để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác báo cáo, giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động của các KCN, KKT và công khai thông tin cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhu cầu.

Nghị định tiếp tục kế thừa các quy định của Nghị định số 82/2018/NĐ-CP về thẩm quyền, trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương, Ban Quản lý KCN, KKT và định hướng kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về KCN, KKT cả Trung ương và địa phương theo hướng tinh gọn, một đầu mối, đủ thẩm quyền, đủ năng lực để phát triển các mô hình mới, tiếp cận phương thức quản lý nhà nước hiện đại.

Việc bổ sung các loại hình KCN, KKT, bỏ thủ tục thành lập KCN để giảm bớt thủ tục hành chính và bổ sung, sửa đổi một số quy định để nâng cao hiệu quả sử dung đất trong phát triển KCN, KKT, giúp hoàn thiện cơ chế chính sách và đồng hành cùng với nhà đầu tư để xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh của KCN, KKT ngày càng minh bạch, thuận lợi.

PV: Xin chân thành cảm ơn ông!

Một góc KCN, đô thị và dịch vụ VSIP Nghệ An
Một góc KCN, đô thị và dịch vụ VSIP Nghệ An