Phòng vệ thương mại vẫn là công cụ của “nhà giàu”
Đây là nhận định của bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đưa ra tại hội thảo “Công bố kết quả điều tra nghiên cứu: Điều gì cản trở doanh nghiệp Việt Nam sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại để tự bảo vệ trước hàng hoá nước ngoài?” ngày 14/10/2015.
3 đặc điểm của các vụ PVTM đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt
Theo báo cáo nghiên cứu “Sử dụng công cụ phòng vệ thương mại trong bối cảnh Việt Nam thực thi các FTAs và Cộng đồng Kinh tế ASEAN”, trong khi hàng hóa Việt Nam xuất khẩu đã là đối tượng của 94 vụ kiện phòng vệ thương mại ở nước ngoài, thì Việt Nam tới nay mới chỉ sử dụng công cụ này 4 lần.
Cụ thể là, tính tới tháng 10/2015, tổng số vụ điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa Việt Nam ở nước ngoài là 70, tổng số vụ điều tra chống trợ cấp là 07, tổng số vụ điều tra tự vệ là 17.
Số lượng các vụ điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt
Nêu lên đặc điểm của các vụ kiện phòng vệ thương mại đối với hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam, bà Trang cho biết, 3/4 vụ việc là điều tra áp dụng biện pháp tự vệ, bởi biện pháp này tương đối đơn giản, như: không phải chứng minh sự tồn tại của hành vi cạnh tranh lành mạnh...
Chính vì vậy, trong bối cảnh Việt Nam chưa sử dụng nhiều công cụ phòng vệ thương mại, năng lực và kinh nghiệm của cả doanh nghiệp đi kiện lẫn cơ quan điều tra còn hạn chế, thì các biện pháp tự vệ là một công cụ có ưu thế hơn so với 2 công cụ còn lại.
Tuy nhiên, bà Trang quan ngại, về lâu dài sẽ đi ngược lại với thông lệ quốc tế, bởi sự dụng biện pháp tự vệ sẽ gây khó cho Nhà nước khi phải có sự đền bù tương ứng cho các nước nhập khẩu bị ảnh hưởng. Tức là để bảo vệ được ngành này, Nhà nước sẽ phải hy sinh một ngành khác.
Báo cáo nghiên cứu “Sử dụng công cụ phòng vệ thương mại trong bối cảnh Việt Nam thực thi các FTAs và Cộng đồng Kinh tế ASEAN” cũng nêu ra, nguyên đơn khởi kiện trong các vụ kiện phòng vệ thương mại đối với hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào Việt Nam đa số đang nắm giữ vị trí thống lĩnh thị trường đối với loại sản phẩm là đối tượng của vụ kiện.
Chẳng hạn, trong cả 03 vụ việc phòng vệ thương mại của Việt Nam, nguyên đơn chỉ bao gồm 01 doanh nghiệp (với 02 vụ tự vệ) hoặc 02 doanh nghiệp (với vụ chống bán phá giá) và sản lượng sản phẩm liên quan mà các nguyên đơn sản xuất chiếm tới trên dưới 70%-80% tổng sản lượng sản xuất nội địa.
“Điều này cũng đồng nghĩa với việc công cụ phòng vệ thương mại vẫn là công cụ của nhà giàu, chưa phải là công cụ để bảo vệ quyền lợi và lợi ích của các doanh nghiệp nhỏ, vốn là những chủ thể phải chịu tác động mạnh nhất từ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của hàng hóa nước ngoài tại Việt Nam (nếu có)”, bà Trang nhấn mạnh.
Ngoài ra, bà Trang cho biết, về mặt lý thuyết, hàng hóa nhập khẩu càng nhiều, thì nguy cơ cạnh trạnh không lành mạnh càng lớn.
Tuy nhiên, các sản phẩm bị kiện trong các vụ kiện phòng vệ thương mại của Việt Nam đều không phải các sản phẩm trong top đầu về nhập khẩu vào Việt Nam, như: thiết bị điện, điện tử; máy móc; dầu, nhiên liệu; sắt, thép; nhựa và các sản phẩm nhựa... mà là các sản phẩm có tỷ lệ nhập khẩu rất ít, như: kính nổi, dầu thực vật, thép không gỉ và bột ngọt. Điều này có nghĩa là, không phải hàng hóa nhập khẩu ít hơn thì nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh ít hơn hay số vụ kiện sẽ ít hơn.
Điều gì cản trở doanh nghiệp sử dụng công cụ phòng về thương mại?
Báo cáo nghiên cứu “Sử dụng công cụ phòng vệ thương mại trong bối cảnh Việt Nam thực thi các FTAs và Cộng đồng Kinh tế ASEAN” chỉ ra 04 nguyên nhân cản trở các doanh nghiệp sử dụng công cụ phòng vệ thương mại, đó là khả năng tập hợp lực lượng kém; thiếu vốn; hạn chế về con người; và khả năng tập hợp bằng chứng chứng minh rằng, hàng hóa bị kiện đang bán phá giá, được trợ cấp hoặc nhập khẩu ồ ạt vào Việt Nam gây thiệt hại đáng kể/nghiêm trọng cho ngành sản xuất nội địa.
Đứng dưới góc độ của nhà làm luật, Luật sư Phạm Lê Vinh, Công ty Luật TNHH ATIM chia sẻ, rào cản rất lớn mà các doanh nghiệp Việt Nam đang phải đối mặt, đó là tâm lý “sợ nước ngoài” của người Việt hay nghe đến “kiện cáo” là ngại.
“Việc kiện qua kiện lại của hàng hóa là bình thường. Chúng ta cần loại bỏ dần tâm lý này khi tham gia vào sân chơi quốc tế”, Luật sư Vinh nói.
Cũng nhận định về vấn đề trên, ông Lê Thanh Ba, Phó Chủ tịch Hội Công nghiệp Vật liệu Xây dựng lại cho rằng, khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp là tiếp cận thông tin để tìm những bằng chứng cho vụ kiện, bởi cơ chế cung cấp thông tin của Nhà nước hiện nay vẫn còn nhiều bất cập.
Giải pháp cho doanh nghiệp Việt
Phát biểu tại Hội thảo, bà Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ tịch Hội đồng tư vấn về phòng vệ thương mại, Trung tâm WTO và Hội nhập, VCCI cho biết, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đang ngày càng đi vào chiều sâu thông qua việc đàm phán và ký kết các FTA với nhiều đối tác thương mại lớn sẽ vừa là cơ hội, vừa là rào cản cho cộng đồng doanh nghiệp. Các công cụ phòng vệ thương mại truyền thống cần phải đổi mới hơn, áp dụng linh hoạt hơn với các giải pháp mới để phù hợp với đòi hỏi của thực tế hiện nay.
Còn theo bà Trang, cốt lõi là các doanh nghiệp phải thay đổi tư duy, cách nhìn nhận và phải có sự chuẩn bị cho việc sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại. Về phía các cơ quan nhà nước thì cần công khai thông tin, hỗ trợ tìm kiếm, tập hợp số liệu chính thức thuộc kiểm soát của cơ quan Nhà nước. Đồng thời, có cơ chế hỗ trợ cho doanh nghiệp bằng các hình thức, như: đơn giản hóa, cải cách thủ tục hành chính liên quan tới việc đáp ứng các yêu cầu của doanh nghiệp gắn với mục tiêu kiện phòng vệ thương mại; phối hợp hiệu quả, kịp thời với cơ quan điều tra trong việc cung cấp thông tin phục vụ điều tra.
Cũng nhận định về vấn đề trên, Luật sư Vinh cho rằng, VCCI cần cung cấp thông tin nhiều hơn, thậm chí có thể nêu lên dấu hiệu nhận biết về việc bán phá giá, trợ cấp… để các doanh nghiệp tìm hiểu dễ dàng hơn. Đồng thời, vì bản thân các doanh nghiệp Việt đều nhỏ lẻ, tính liên kết rất kém, nên vai trò của hiệp hội trong việc liên kết giữa các doanh nghiệp cũng cần phải tăng cường.
Ngoài ra, ông Lê Thanh Ba cũng nêu ý kiến, bước vào sân chơi lớn, vai trò của nhà nước cũng cần phải được tăng cường hơn nữa, đặc biệt trong công tác thống kê và cung cấp thông tin./.
Bình luận