Quyết tâm tạo đột phá về phát triển bền vững cho khu vực miền Trung và Tây Nguyên
Phát biểu tại Diễn đàn Nhịp cầu Phát triển Việt Nam (Vietnam Connect Forum) năm 2023 và Lễ trao giải thưởng Rồng Vàng lần thứ 22 do Bộ Ngoại giao, Tạp chí Kinh tế Việt Nam và UBND TP. Đà Nẵng phối hợp tổ chức vào ngày 17/3 tại TP. Đà Nẵng, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang cho biết, Việt Nam đã đưa ra hàng loạt cam kết mạnh mẽ về phát triển bền vững với việc cùng gần 150 quốc gia cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào giữa thế kỷ 21.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang cho biết, Việt Nam đã đưa ra hàng loạt cam kết mạnh mẽ về phát triển bền vững với việc cùng gần 150 quốc gia cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào giữa thế kỷ 21. |
Việt Nam đang tích cực triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và Chiến lược phát triển kinh tế số
Phó Thủ tướng cho biết, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2021-2030 của Việt Nam đã nêu rõ: “Phát triển bền vững trở thành xu thế bao trùm trên thế giới; kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn”.
Theo hướng đó, Chính phủ Việt Nam đang tích cực triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Đáng chú ý, Việt Nam đã đưa ra hàng loạt cam kết mạnh mẽ về phát triển bền vững với việc cùng gần 150 quốc gia cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào giữa thế kỷ 21; cùng với hơn 100 quốc gia tham gia cam kết giảm phát thải metan toàn cầu vào năm 2030; cùng 140 quốc gia tham gia Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất; cùng 48 quốc gia tham gia Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch; cùng 150 quốc gia tham gia Liên minh thích ứng toàn cầu.
Tháng 12/2022, Việt Nam đã cùng các nước G7 và một số đối tác quốc tế công bố Tuyên bố chính trị về thiết lập Quan hệ Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) và đang triển khai tuyên bố này.
Việt Nam cũng đạt nhiều kết quả tích cực trong lĩnh vực chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.
Theo Phó Thủ tướng, trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam đạt trung bình khoảng 38%/năm. Năm 2022, giá trị kinh tế số của Việt Nam đạt khoảng 23 tỷ USD.
Những kết quả trên đã đưa Việt Nam trở thành nước có tốc độ phát triển kinh tế số nhanh thứ hai thế giới (sau Ấn Độ) và tốc độ phát triển thương mại điện tử cao nhất khu vực Đông Nam Á. Theo dự báo của Google và Temasek, giá trị kinh tế số của Việt Nam có thể đạt 49 tỷ USD vào năm 2025 và 120-200 tỷ USD vào năm 2030.
Việt Nam phải thay đổi mô hình tăng trưởng cũ để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, xanh và hiện đại
Tại Diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hà Kim Ngọc cho biết thêm, thế giới đã và đang trải qua những tác động cộng hưởng của dịch bệnh, chiến tranh, biến đổi khí hậu và các vấn đề xã hội với mức độ và quy mô chưa từng có, ảnh hưởng tiêu cực đến xu hướng phát triển của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Các quốc gia trên thế giới, không phân biệt lớn nhỏ, đều nỗ lực tìm kiếm các mô hình phát triển phù hợp với bối cảnh mới nhằm nâng cao tính sáng tạo và năng lực chống chịu của nền kinh tế, từ đó tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, hướng tới mục tiêu phát triển thịnh vượng và bền vững.
Trong bối cảnh đó, “Tăng trưởng xanh” và “Chuyển đổi số” ngày càng đóng vai trò quan trọng, là ưu tiên và xu thế phát triển vượt trội trong tương lai của các quốc gia. Các nước, các tổ chức quốc tế đang bước vào giai đoạn triển khai mạnh mẽ các quy định, cam kết để thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh.
"Hai mục tiêu này là những định hướng mang tính chiến lược cho việc phục hồi, phát triển và xa hơn nữa là phòng ngừa rủi ro cho cả khu vực công và tư. Với việc dần đổi mới cách thức sản xuất, kinh doanh và tương tác, kết hợp sử dụng hiệu quả tài nguyên, nâng cao giá trị gia tăng dựa trên nền tảng ứng dụng những thành tựu của chuyển đổi số và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thế giới kỳ vọng mở ra thời kỳ tăng trưởng cao và bền vững", Thứ trưởng nhấn mạnh.
Chính phủ Việt Nam cũng đã kịp thời đề ra các chủ trương lớn và coi chuyển đổi xanh, chuyển đổi số như những động lực tăng trưởng hướng tới các mục tiêu phát triển dài hạn đến năm 2030 và xa hơn – có thể nói Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia đi đầu trong khu vực với cam kết mạnh mẽ về ứng phó với biến đổi khí hậu, đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 với sự hợp tác và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, tham gia tích cực các FTA “thế hệ mới” có nội hàm về phát triển bền vững như CPTPP, EVFTA.
Theo Thứ trưởng, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh là nội dung quan trọng trong các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội các vùng, các địa phương. Chính phủ đã lãnh đạo và chỉ đạo sát sao, yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương tăng cường thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng; thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, tăng trưởng xanh, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi số; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, thúc đẩy khởi nghiệp…
Thứ trưởng cho rằng, các thách thức hiện nay đòi hỏi các quốc gia nói chung và các địa phương, doanh nghiệp nói riêng chuẩn bị tầm nhìn dài hạn trong xây dựng và thực hiện các kế hoạch hành động, mục tiêu tăng trưởng cho tương lai phát triển xanh, hiện đại và bền vững; song cũng là thời điểm để các quốc gia trên thế giới tăng cường hợp tác, cùng vượt qua khó khăn trên tinh thần "lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ".
"Trong bối cảnh chung đó, để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, xanh và hiện đại, Việt Nam sẽ phải thay đổi mô hình tăng trưởng cũ, dựa vào tài nguyên để chuyển sang mô hình tăng trưởng mới xanh hơn. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cũng cần nguồn lực tài chính lớn, cần tăng cường hợp tác quốc tế và thu hút các nguồn lực từ bên ngoài như vốn, tài chính xanh, công nghệ, tri thức cho quá trình chuyển đổi xanh, chuyển đổi số theo phương châm 'nội lực là cơ bản, quyết định, ngoại lực là quan trọng, đột phá'", Thứ trưởng Hà Kim Ngọc đặt vấn đề.
Năm 2023 có ý nghĩa quan trọng trong lộ trình chuyển đối số quốc gia với mục tiêu được đề ra là “năm tạo lập và khai thác dữ liệu để tạo ra những giá trị mới của Việt Nam”.
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hà Kim Ngọc, |
Miền Trung và Tây Nguyên còn nhiều dư địa để phát triển xanh
Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang nhấn mạnh khu vực miền Trung và Tây Nguyên là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng. Vì vậy, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên.
Chủ trương chung là phát triển Tây Nguyên trở thành vùng phát triển nhanh, bền vững dựa trên kinh tế xanh, tuần hoàn; lấy phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp là trọng tâm, trụ đỡ; phát triển công nghiệp chế biến là động lực; phát triển du lịch là đột phá.
Nghị quyết số 26 ngày 3/11/2022 của Bộ Chính trị đặt mục tiêu phát triển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ trở thành vùng phát triển năng động, nhanh, mạnh và bền vững hơn nữa về kinh tế biển; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, có khả năng chống chịu cao trong phòng chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu… và đến năm 2045, vùng có một số trung tâm công nghiệp, dịch vụ, hợp tác quốc tế lớn ngang tầm khu vực châu Á.
Theo hướng này, "trong thời gian qua, các địa phương và doanh nghiệp khu vực miền Trung và Tây Nguyên đã thể hiện quyết tâm rất cao, chủ động, tích cực triển khai các nhiệm vụ về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh và chuyển đổi số", Phó Thủ tướng đánh giá.
Vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành các nghị quyết về phát triển vùng Tây Nguyên, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ. Trên cơ sở đó, Chính phủ đề ra Chương trình hành động phát triển hai vùng chiến lược, đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng và đối ngoại, gắn với Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Chiến lược phát triển bền vững về kinh tế biển và Chiến lược chuyển đổi số quốc gia.
Trong đó, vùng Tây Nguyên tập trung cơ cấu lại kinh tế theo hướng phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là trọng tâm; chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, dựa trên ứng dụng công nghệ cao và chuyển đổi số. Vùng Bắc Trung Bộ và miền Trung tập trung phát triển các ngành kinh tế biển, phấn đấu trở thành vùng mạnh về biển, giàu từ biển; nâng cao hiệu quả kết cấu hạ tầng hiện có, các khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp, hệ thống đô thị ven biển.
Phó Thủ tướng khẳng định, trong quá trình thực hiện các mục tiêu về phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, chuyển đổi số cho khu vực miền Trung và Tây Nguyên, Chính phủ Việt Nam luôn mong muốn có sự đồng hành, hỗ trợ và hợp tác hiệu quả của các quốc gia, các tổ chức quốc tế cũng như của cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Chính phủ và các địa phương liên quan sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các đối tác, doanh nghiệp tìm hiểu cơ hội và triển khai các hoạt động hợp tác; đồng hành cùng các đối tác để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc phát sinh.
Bà Stefanie Stallmeister - Giám đốc Danh mục dự án của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam đã nêu rõ 2 thách thức hàng đầu trong tăng trưởng xanh và kỹ thuật số |
2 thách thức hàng đầu trong tăng trưởng xanh và kỹ thuật số ở khu vực miền Trung
Bà Stefanie Stallmeister - Giám đốc Danh mục dự án của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam đã nêu rõ 2 thách thức hàng đầu trong tăng trưởng xanh và kỹ thuật số ở khu vực miền Trung.
Về tăng trưởng xanh, bà Stefanie Stallmeister cho rằng khu vực miền Trung đối mặt cả những thách thức ở khía cạnh thích ứng và khía cạnh khử carbon.
Ở khía cạnh thích ứng, miền Trung đang đối mặt với mực nước biển đang dâng cao, những cơn bão mạnh hơn, lượng mưa thất thường hơn. Các thành phố trong khu vực hứng chịu nhiều trận lũ, hạn hán, trong khi người dân sống dọc theo bờ biển phải đối mặt với sự xói mòn và nhiễm mặn.
"Rủi ro tự nhiên đối với các cộng đồng ven biển miền Trung hiện tương đối lớn và ngày càng gia tăng", bà Stefanie Stallmeister chỉ rõ, trên toàn Việt Nam, thiên tai gây thiệt hại về phúc lợi lên tới 11 tỷ USD mỗi năm, với 60% trong số này xảy ra ở các vùng ven biển và biến đổi khí hậu trong tương lai được dự báo sẽ làm tăng những tổn thất này hơn nữa.
Theo bà Stallmeister, các hệ thống dựa vào thiên nhiên thường không được đánh giá đúng vai trò trong việc thúc đẩy khả năng phục hồi của vùng ven biển và đang chịu áp lực ngày càng tăng từ sự phát triển và khai thác quá mức. Trong 30 năm qua, Việt Nam đã mất một nửa diện tích rừng ngập mặn, chủ yếu là do phá rừng và lấy đất làm ao nuôi tôm.
Ở khía cạnh khử carbon, đại diện WB cho rằng dù Việt Nam là quốc gia phát thải khí nhà kính thấp theo tiêu chuẩn toàn cầu, cường độ tăng trưởng carbon đang tăng lên và đây là một vấn đề đối với nền kinh tế toàn cầu hóa.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giảm lượng khí thải carbon trong hàng xuất khẩu của Việt Nam để đảm bảo hàng xuất khẩu của Việt Nam duy trì tính cạnh tranh, bà Stallmeister cho rằng người tiêu dùng, nhà nhập khẩu và nhà đầu tư ngày càng chú ý đến các nỗ lực giảm thiểu biến đổi khí hậu và có thể bắt đầu bỏ rơi các quốc gia và ngành công nghiệp gây ô nhiễm cao trong tương lai. Mô hình phát triển sử dụng nhiều tài nguyên giúp Việt Nam đạt được mức thu nhập hiện tại không thể duy trì trong một thế giới biến đổi khí hậu.
"Vì vậy, đã đến lúc khu vực miền Trung phải xem xét nền nông nghiệp phát thải thấp trông như thế nào để xuất khẩu nông sản của bạn duy trì tính cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Đã đến lúc ngành du lịch sôi động của bạn được tiếp cận với năng lượng tái tạo và quản lý chất thải rắn bền vững để bạn có thể tiếp tục thu hút khách du lịch có ý thức bảo vệ môi trường. Đã đến lúc phải đảm bảo rằng các ngành sản xuất ở Thanh Hóa , Nghệ An và Hà Tĩnh có thể tiếp cận các nguồn năng lượng tái tạo, không xả thải và sản phẩm có thể được xuất khẩu thông qua chuỗi hậu cần các-bon thấp", đại diện WB nhận định.
Đại diện WB cũng nêu lên những thách thức về tăng trưởng nền kinh tế kỹ thuật số của Việt Nam. Đây là trọng tâm của nhu cầu tăng cường tăng trưởng năng suất trong nền kinh tế Việt Nam và áp dụng rộng rãi hơn cho cách tiếp cận của Việt Nam đối với việc áp dụng công nghệ.
Nhận định không nhiều quốc gia trong khu vực đạt được mức thu nhập cao mà không phát triển và áp dụng công nghệ, bà Stallmeister đánh giá các chương trình hỗ trợ nâng cấp công nghệ của chính phủ Việt Nam, so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực như Malaysia và Thái Lan, khá hạn chế cả về số lượng chương trình và khối lượng.
"Các chương trình này có xu hướng rời rạc và thiếu sự phối hợp giữa các bộ ngành và giữa cấp quốc gia và cấp địa phương. Có thể hữu ích nếu xem xét kinh nghiệm của một số nước láng giềng của các bạn. Chúng ta có thể nhìn vào Hàn Quốc và cách họ có thể leo lên bậc thang công nghệ theo cách thúc đẩy năng suất và tăng trưởng nhanh chóng", bà phân tích.
Bà cũng cho rằng Việt Nam đang đầu tư chưa đầy đủ vào các năng lực trong tương lai để đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ đòi hỏi các nguồn lực dựa trên tri thức và phức tạp hơn.
Ví dụ, cường độ R&D của Việt Nam ở mức 0,4% vào năm 2021, so với mức 1,5% của Hàn Quốc vào năm 1987 khi quốc gia này có GDP bình quân đầu người tương tự. Số đơn xin cấp bằng sáng chế đã tăng lên kể từ giữa những năm 1990, nhưng số lượng đơn xin cấp bằng sáng chế ở Việt Nam vào năm 2021 so với Hàn Quốc những năm 1980. Thiếu nguồn lực hạn chế sự mở rộng của nhiều trường đại học khoa học và kỹ thuật hàng đầu của Việt Nam, hạn chế sự phát triển của lực lượng lao động STEM có tay nghề cao. Và gần 80% các công ty sản xuất đang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm công nhân lành nghề.
Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Hồng Sơn nhấn mạnh, liên kết phát triển vùng là chủ đề đã được thảo luận nhiều nhưng trên thực tế không có nhiều tiến triển. |
Cần xây dựng chiến lược liên kết phát triển khu vực miền Trung và Tây Nguyên
Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Hồng Sơn nhấn mạnh, liên kết phát triển vùng là chủ đề đã được thảo luận nhiều nhưng trên thực tế không có nhiều tiến triển. Vấn đề quan trọng trước hết là phải đồng lòng thay đổi, nhận thức.
Về nguyên nhân, ông Nguyễn Hồng Sơn chỉ rõ, có cả nguyên nhân từ cơ chế, chính sách nhưng cũng có nguyên nhân từ nhận thức lãnh đạo.
Về cơ chế, hiện chưa hình thành được cơ quan hành chính cấp vùng. 63 tỉnh/thành ở ta hiện nay được ví như 63 nền kinh tế, cái gì cũng có, tình trạng cục bộ cản trở liên kết.
Nhiều lãnh đạo địa phương chỉ muốn liên kết với các trung tâm kinh tế lớn chứ không muốn liên kết với tỉnh nhỏ, khó khăn.
Hệ quả của tình trạng cục bộ là cạnh tranh xuống đáy giữa các tỉnh, nền kinh tế không giải quyết được các vấn đề chung như môi trưởng, sử dụng hiệu quả tài nguyên…
Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Hồng Sơn cũng đưa ra một số vấn đề để lãnh đạo các địa phương, các bộ/ngành liên quan lưu ý khi xây dựng chiến lược liên kết phát triển khu vực miền Trung và Tây Nguyên.
Đó là thực hiện tốt quy hoạch vùng và từng địa phương. Quy hoạch vùng là cơ sở pháp lý cho liên kết, hợp tác của từng địa phương trong vùng; phù hợp với quy hoạch tổng thể Quốc gia.
Liên kết theo tiểu vùng và giữa các địa phương lân cận giúp Bắc Trung bộ và duyên hải trung bộ khắc phục các rào cản về địa lý. Đặc điểm địa hình của vùng này là trải dài từ bắc vào nam, bề ngang hẹp, địa hình chia cắt…
Liên kết ngang (Đông – Tây) theo các hành lang kinh tế, gắn với các tuyến đường giao thông sẽ giúp phát huy được lợi thế so sánh và lợi thế bổ trợ lẫn nhau của từng địa phương; giữa vùng miền núi và đồng bằng, ven biển; phát huy lợi thế mặt tiền của vùng Bắc trung bộ và Duyên hải trung bộ.
Vùng Bắc trung bộ và Duyên hải Trung bộ có nhiều cơ sở hạ tầng quan trọng như cảng biển, cảng hàng không, khu kinh tế ven biển, khu kinh tế cửa khẩu… Cần có sự liên kết với nhau, phân chia rõ vai trò, vị trí để tránh chồng chéo, cạnh tranh triệt tiêu lợi thế của nhau.
Xác định rõ các trung tâm tăng trưởng, các cực tăng trưởng và đặt ra yêu cầu các trung tâm, các cực tăng trưởng của vùng phải có những tác động lan toả, thúc đẩy, lôi kéo sự phát triển của các địa phương trong vùng (vùng Trung Trung bộ; Đà Nẵng, Huế, Khánh Hoà, Vinh, Quy Nhơn, Buôn Ma Thuột…).
Liên kết theo lĩnh vực như năng lượng, công nghệ thông tin, kinh tế số, đào tạo nguồn nhân lực, du lịch và dịch vụ, logicstics, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin, dữ liệu, trao đổi thông tin giữa các địa phương trong vùng.Vấn đề khó, đòi hỏi nghiên cứu sâu, thảo luận nhiều là xây dựng thể chế và cơ chế điều phối, phát triển vùng. Thể chế, cơ chế phải đảm bảo: (i) thể chế có đủ “quyền lực và nguồn lực”; (ii) cơ chế điều phối đối với các tiểu vùng trong tổng thể điều tiết vùng?; (iii) ơ chế phân bổ nguồn ngân sách hợp lý cho vùng, nhất là đối với các dự án lớn, mang tính vùng?
TS. Chử Văn Lâm, Tổng Biên tập Tạp chí Kinh tế Việt Nam cho biết, sau Diễn đàn, Ban tổ chức sẽ tổng hợp kết quả thảo luận cùng với các báo cáo đóng góp từ các chuyên gia, các địa phương chưa có điều kiện chia sẻ trong Diễn đàn, đệ trình báo cáo Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Quốc hội.
|
Còn bà Stallmeister thì khẳng định, đầu tư vào thích ứng là hoàn toàn cần thiết để đối phó với những thách thức trước mắt và ngày càng tồi tệ hơn. "Một kế hoạch hành động và chương trình đầu tư quốc gia là cần thiết để giải quyết các rủi ro và cơ hội phát triển vùng ven biển", bà phân tích.
Bà Stallmeister cũng nhấn mạnh rằng việc đầu tư này phải "mang tính khu vực chứ không phải cấp tỉnh", bởi rất khó để đầu tư vào các biện pháp bảo vệ bờ biển theo từng tỉnh hay đầu tư quản lý đường sông theo tỉnh. Bà lấy ví dụ, thành phố Đà Nẵng không thể quản lý lũ theo mùa mà không phối hợp với các tỉnh xung quanh trong quản lý lưu vực giàu rừng.
Bên cạnh đó, việc đưa ra các giải pháp thích ứng với biển đổi khí hậu phải dựa trên thiên nhiên để mang lại lợi ích kép trong quản lý các tác động của biến đổi khí hậu, đồng thời giảm lượng khí thải và làm cho các thành phố, bờ biển và rừng trở nên hấp dẫn hơn.
Theo bà, việc mở rộng năng lượng tái tạo sẽ mang lại cơ hội cho khu vực. Các phần của khu vực có lợi thế so sánh mạnh mẽ về năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng mặt trời và gió. Thu hút đầu tư của khu vực tư nhân vào các lĩnh vực này có thể tạo ra một cú hích kinh tế quan trọng và tạo việc làm.
Phát biểu kết thúc Diễn đàn, TS. Chử Văn Lâm, Tổng Biên tập Tạp chí Kinh tế Việt Nam cho biết, Diễn đàn với chủ đề, nội dung và các ý kiến tham luận, bàn thảo hết sức thiết thực, có tính xu hướng và thực tiễn cao, có giá trị với các địa phương và cộng đồng doanh nghiệp, với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Với kỳ vọng, thông tin sẽ được lan tỏa tới được đông đảo công chúng quan tâm, tạo động lực thúc đẩy các xu hướng mới – an toàn và bền vững hơn, cùng đóng góp vào nỗ lực chung của Việt Nam trên hành trình hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, TS. Chử Văn Lâm cho biết, sau Diễn đàn, Ban tổ chức sẽ tổng hợp kết quả thảo luận của Diễn đàn hôm nay cùng với các báo cáo đóng góp từ các chuyên gia, các địa phương chưa có điều kiện chia sẻ trong Diễn đàn, đệ trình báo cáo Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Quốc hội./.
--------
Tiếp nối Phiên toàn thể Diễn đàn Vietnam Connect 2023 là Lễ công bố và vinh danh các Doanh nghiệp FDI tiêu biểu năm 2022-2023 nhận giải thưởng Rồng Vàng (Golden Dragon Awards) – Lần thứ 22
Chương trình Golden Dragon Awards 2023 tập trung khảo sát và xét chọn các doanh nghiệp tiên phong đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi xanh, ứng dụng công nghệ số trong quy trình sản xuất, kinh doanh và quản trị doanh nghiệp, quan tâm, trú trọng và có kế hoạch thực thi ESG. Các doanh nghiệp đạt kết quả phục hồi ấn tượng sau đại dịch Covid-19 và thể hiện chiến lược phát triển bền vững.
Năm 2023, Ban tổ chức nhận được hơn 500 đề cử và đăng ký tham gia. Qua 2 vòng khảo sát và xét chọn, chương trình Golden Dragon Awards 2023 công bố và vinh danh TOP 50 Doanh nghiệp FDI tiêu biểu ở 06 nhóm ngành, bao gồm: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; Công nghệ số & dịch vụ số; Dịch vụ tài chính và bảo hiểm; Phát triển hạ tầng, khu công nghiệp và bất động sản; Giáo dục và chăm sóc sức khỏe; Nông nghiệp, thực phẩm và đồ uống. Các thương hiệu nổi bật được vinh danh Giải thưởng Rồng Vàng (GDAs) năm nay tiêu biểu như: LEGO Manufacturing Việt Nam, Qualcomm Việt Nam, Intel Products Việt Nam, Sembcorp Energy Việt Nam, Siemens Việt Nam.
Bên lề Diễn đàn Vietnam Connect và Golden Dragon Awards 2023 cũng sẽ diễn ra các cuộc gặp gỡ song phương và đa phương giữa các địa phương, doanh nghiệp với đại diện các cơ quan ngoại giao tại Việt Nam (đại sứ quán, lãnh sự quán), các hiệp hội thương mại nước ngoài (AmCham, EuroCham…).
Bình luận