ThS. Nguyễn Quang Tuấn

Viện Xã hội học

Email: nqtuanios@gmail.com

Tóm tắt

Bài viết phân tích tình trạng thất nghiệp của lao động di cư đến vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung trong giai đoạn 2020-2022 với mục đích chính để làm việc. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ Điều tra Lao động việc làm (ĐTLĐVL) của Tổng cục Thống kê các năm 2020 và 2022. Kết quả phân tích dữ liệu cho thấy: số lượng lao động di cư thất nghiệp đã giảm dần từ năm 2020 đến 2022, tuy nhiên, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức. Nhóm lao động di cư thất nghiệp chủ yếu là nam giới trẻ tuổi, chưa kết hôn, có trình độ học vấn trung học phổ thông, sơ cấp, trung cấp và sống ở khu vực nông thôn.

Từ khóa: thất nghiệp, việc làm, lao động di cư, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung

Summary

The article analyzes the unemployment situation of migrant workers who moved to the North Central and Central Coastal regions during the 2020-2022 period with the primary purpose of seeking employment. The study utilizes data from the Labor Force Survey (LFS) conducted by the General Statistics Office in 2020 and 2022. The data analysis results indicate that the number of unemployed migrant workers gradually decreased from 2020 to 2022. However, the North Central and Central Coastal regions still face numerous challenges. The unemployed migrant workforce mainly consists of young, unmarried males with high school, elementary, or intermediate vocational education and living in rural areas.

Keywords: unemployment, employment, migrant workers, North Central and Central Coastal Region

GIỚI THIỆU

Vấn đề việc làm và thất nghiệp luôn là một trong những thách thức kinh tế - xã hội được nhiều quốc gia quan tâm, trong đó có Việt Nam. Trong những năm gần đây, tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam có xu hướng gia tăng, đặc biệt là trong giai đoạn đại dịch Covid-19 diễn ra. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động đã tăng từ 2,17% vào năm 2019 lên 2,48% vào năm 2020 và tiếp tục đạt đỉnh 3,20% vào năm 2021 trước khi giảm nhẹ xuống 2,32% vào quý IV năm 2022. Đáng chú ý, lao động di cư – một nhóm dễ bị tổn thương trên thị trường lao động, luôn phải đối mặt với nguy cơ thất nghiệp cao hơn đáng kể so với các nhóm lao động khác. Trong năm 2021, có khoảng 59,9 nghìn người di cư thất nghiệp tại Việt Nam, chiếm 4,0% tổng số người thất nghiệp trong cả nước. Tỷ lệ thất nghiệp của người di cư là 8,83%, cao gấp hơn ba lần so với tỷ lệ thất nghiệp của dân số từ 15 tuổi trở lên (2,94%). Đặc biệt, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là vùng có có tỷ lệ người di cư thất nghiệp cao nhất trong số người di cư (Tổng cục Thống kê, 2022).

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về tình trạng thất nghiệp của lao động di cư, song các nghiên cứu mới chỉ mô tả tình trạng thất nghiệp của lao động di cư từ các tỉnh/thành phố khác đến vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. Trong khi đó, các nghiên cứu tập trung vào nhóm lao động di cư với mục đích chính là làm việc cùng với việc nhận diện họ là ai, những khác biệt giữa các nhóm xã hội của lao động di cư thất nghiệp và những vấn đề đặt ra đối với tình trạng thất nghiệp của nhóm lao động di cư này vẫn còn là một khoảng trống cần được làm rõ.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Trong bài viết này, lao động di cư (hay còn được gọi là lao động nhập cư) được xác định là những người từ đủ 15 tuổi trở lên di chuyển từ tỉnh/thành phố khác đến các tỉnh/thành phố thuộc vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung trong khoảng thời gian dưới 5 năm tính đến thời điểm điều tra, với mục đích chính là để làm việc.

Thất nghiệp trong bài viết này được hiểu là những người không có việc làm từ một giờ trở lên để nhận tiền công/tiền lương và không làm các công việc tự làm cho gia đình và công việc sản xuất, kinh doanh để tạo ra thu nhập trong vòng 7 ngày trước thời điểm điều tra, đồng thời có các hoạt động tìm kiếm việc làm trong 30 ngày trước thời điểm điều tra và sẵn sàng làm việc ngay khi có cơ hội việc làm trong vòng 2 tuần sau thời điểm điều tra.

Bài viết sử dụng số liệu ĐTLĐVL năm 2020 và 2022 của Tổng cục Thống kê để phân tích tình trạng thất nghiệp của lao động di cư từ tỉnh/thành phố khác đến vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, với mục đích chính làm việc (gọi tắt là lao động di cư), cũng như nhận diện họ là ai và những khác biệt giữa các nhóm xã hội của nhóm lao động di cư thất nghiệp này. Bài viết không sử dụng bộ số liệu ĐTLĐVL năm 2021, do bộ số liệu này không có câu hỏi về mục đích chính di chuyển đến vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung giống như các bộ số liệu ĐTLĐVL năm 2020 và 2022, do đó, tác giả không thể lọc được số liệu những người lao động di cư đến vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với mục đích chính là để làm việc theo khái niệm.

Trước khi tiến hành phân tích số liệu, tác giả sử dụng các kỹ thuật để lọc dữ liệu từ bộ số liệu gốc ĐTLĐVL năm 2020 và 2022, dựa trên các đặc điểm, bao gồm: những người di cư dưới 5 năm; những người di cư đến vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với mục đích chính là làm việc; những người thất nghiệp theo định nghĩa, bao gồm: những người không làm việc trong 7 ngày trước thời điểm điều tra, không tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh để tạo ra thu nhập, không tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp, có hoạt động tìm kiếm việc làm và sẵn sàng làm việc trong vòng 2 tuần tới tính từ thời điểm điều tra.

THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG DI CƯ THẤT NGHIỆP VÙNG BẮC TRUNG BỘ VÀ DUYÊN HẢI MIỀN TRUNG GIAI ĐOẠN 2020-2022

Đặc điểm xã hội và nhân khẩu học của lao động di cư thất nghiệp vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung

Phân tích số liệu ĐTLĐVL các năm 2020, 2022 cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022, số lượng người di cư đến vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với mục đích chính để làm việc đã có sự suy giảm đáng kể. Cụ thể, năm 2020 có 18.504 người di cư đến khu vực này, tuy nhiên, đến năm 2022, con số này giảm xuống còn 13.837 người. Số lượng lao động di cư thất nghiệp tại vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung cũng giảm dần, từ 1.744 người (chiếm 9,4% trong tổng số người di cư) xuống còn 1.011 người (chiếm 7,3% trong tổng số người di cư).

Kết quả phân tích đặc điểm lao động di cư thất nghiệp (Bảng 1) cho thấy:

(i) Giới tính: Nếu như trong năm 2020, lao động di cư thất nghiệp chủ yếu là nữ giới, chiếm 77,9%, thì đến năm 2022, xu hướng đã đổi chiều, khi số lao động di cư thất nghiệp chiếm đa số trong năm 2022 lại là nam giới, tương ứng với 90,8%.

(ii) Nhóm tuổi: Trong năm 2020, lao động di cư thất nghiệp chủ yếu là nhóm trẻ tuổi (79,5% cho nhóm từ 15-24 tuổi), tuy nhiên, đến năm 2022, xu hướng này lại trở nên phổ biến hơn ở các nhóm tuổi cao hơn (cao nhất là 48,8% cho nhóm 25-29 tuổi; nhóm lao động di cư thất nghiệp từ 30 tuổi trở lên là 22,7%).

(iii) Tình trạng hôn nhân: Lao động di cư thất nghiệp giai đoạn 2020-2022 phổ biến ở nhóm chưa có vợ/chồng.

(iv) Học vấn: trong số lao động di cư thất nghiệp giai đoạn 2020-2022, chiếm tỷ lệ cao nhất là nhóm có trình độ THPT, sơ cấp, trung cấp, với 44,4% vào năm 2020 và 69,8% vào năm 2022. Nhóm lao động di cư thất nghiệp có trình độ cao đẳng, đại học cũng tương đối cao.

(v) Khu vực sinh sống: Lao động di cư thất nghiệp chủ yếu sống ở khu vực thành thị (năm 2020), tuy nhiên, đến năm 2022, người lao động di cư thất nghiệp lại chủ yếu sống ở khu vực nông thôn.

(vi) Vùng xuất cư: lao động di cư thất nghiệp ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung phổ biến là những người đến từ vùng Đông Nam Bộ.

Bảng 1: Đặc điểm của lao động di cư thất nghiệp đến vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung giai đoạn 2020-2022 (%)

Đặc điểm

2020

2022

Giới tính

Nam

22,1

90,8

Nữ

77,9

9,2

Nhóm tuổi

15-24

79,5

28,5

25-29

11,7

48,8

30+

8,7

22,7

Tình trạng hôn nhân

Chưa vợ/chồng

82,0

72,2

Có vợ/chồng

12,8

27,8

Học vấn

Dưới THPT

11,8

0

THPT, sơ cấp, trung cấp

44,4

69,8

Cao đẳng, đại học

43,8

30,2

Khu vực sinh sống

Thành thị

62,2

37,7

Nông thôn

37,8

62,3

Vùng xuất cư

Trung du miền núi phía Bắc và Đồng bằng sông Hồng

11,8

36,1

Tây Nguyên

11,3

0

Đông Nam Bộ

76,9

63,9

Tổng số lao động di cư thất nghiệp (người)

1.744

1.011

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Lao động di cư thất nghiệp vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung phân theo tỉnh, thành phố

Phân tích tình trạng thất nghiệp của lao động di cư theo tỉnh/thành phố tại vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung cho thấy, trong năm 2020, Thanh Hóa, Phú Yên, Nghệ An và TP. Đà Nẵng là những tỉnh/thành phố có tỷ lệ lao động di cư thất nghiệp cao. Trong khi đó, trong năm 2022, số lao động di cư thất nghiệp tại các tỉnh Quảng Ngãi, Thanh Hóa, Bình Thuận và Quảng Trị lại tương đối cao (Bảng 2).

Bảng 2: Cơ cấu lao động di cư thất nghiệp phân theo tỉnh/thành phố trong tổng số lao động di cư thất nghiệp vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, giai đoạn 2020-2022 (%)

Tỉnh/thành phố

2020

2022

Thanh Hóa

25,9

27,8

Nghệ An

11,8

0

Quảng Bình

5,9

0

Quảng Trị

9,8

9,2

TP. Đà Nẵng

11,3

0

Quảng Ngãi

0

34,5

Bình Định

7,0

0

Phú Yên

12,9

0

Ninh Thuận

8,7

6,7

Bình Thuận

6,7

21,8

Tổng số (%)

100

100

Tổng số lao động di cư thất nghiệp (người)

1.744

1.011

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Trong năm 2020, Thanh Hóa, Phú Yên, Nghệ An và TP. Đà Nẵng là những địa phương có tỷ lệ thất nghiệp cao đối với lao động di cư. Đại dịch Covid-19 xảy ra đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới ngành du lịch, như: sụt giảm mạnh số lượng khách du lịch quốc tế và nội địa, xu hướng các doanh nghiệp du lịch đóng cửa tăng lên và số lượng lớn nhân sự bị cắt giảm và/hoặc nghỉ không lương, giảm lương. TP. Đà Nẵng với vị trí là một trung tâm kinh tế và du lịch lớn của khu vực miền Trung đã chịu tác động mạnh mẽ của đại dịch Covid-19, dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng khi ngành du lịch và dịch vụ bị đóng băng (Nguyễn Anh Tuấn 2020; Phạm Trương Hoàng và cộng sự, 2020). Trong năm 2020, mặc dù đại dịch Covid-19 đã tạo ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều ngành, lĩnh vực của nền klinh tế, những chính sách hỗ trợ tài chính và việc làm ngắn hạn của Chính phủ đã phần nào giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp tạm thời. Điển hình như Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 09/04/2020 về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.

Năm 2022, Thanh Hóa tiếp tục là một điểm nóng về thất nghiệp, cho thấy những thách thức dài hạn của tỉnh này trong việc ổn định thị trường lao động và thu hút đầu tư. Dịch bệnh Covid-19 đã tạo ra những tác động bất lợi đến hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, sản xuất công nghiệp nói riêng, nhất là đợt dịch lần thứ tư tại Thanh Hóa. Hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành phải thực hiện nghiêm các quy định về phòng, chống dịch đã ảnh hưởng bất lợi đến kết quả sản xuất (Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa, 2021). Quảng Ngãi và Bình Thuận là cũng hai tỉnh có tỷ lệ lao động di cư thất nghiệp cao. Một trong những lý do chính có thể xuất phát từ các tác động của đại dịch Covid-19 và các thay đổi liên quan đến chuỗi cung ứng lao động, cũng như sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế của 2 địa phương này. Các doanh nghiệp, đặc biệt là những ngành phụ thuộc vào xuất khẩu hoặc du lịch, đã phải đối mặt với khó khăn trong việc hồi phục và duy trì việc làm. Mặc dù tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi từng bước được phục hồi trong năm 2022, tuy nhiên, các doanh nghiệp sản xuất còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình phục hồi sau dịch Covid-19; trong đó, nhiều doanh nghiệp ngừng kinh doanh và giải thể đã có những tác động đến người lao động. Tương tự, tại Bình Thuận, bên cạnh những điểm sáng trong phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch, quá trình phục hồi kinh tế - xã hội vẫn còn chậm, sản xuất công nghiệp còn nhiều khó khăn, hoạt động du lịch tuy có phục hồi, nhưng số lượng khách đến và doanh thu vẫn giảm so với giai đoạn trước khi xảy ra đại dịch.

Lao động di cư thất nghiệp phân theo loại hình di cư

Tại vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, lao động di cư thất nghiệp chủ yếu là nhóm có thời gian di cư từ 1 năm đến dưới 5 năm, trong khi các nhóm di cư từ 6 tháng đến dưới 12 tháng và nhóm di cư dưới 6 tháng thất nghiệp không quá phổ biến (Bảng 3).

Bảng 3: Tỷ lệ lao động di cư thất nghiệp vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung phân theo loại hình di cư, giai đoạn 2020-2022 (%)

Loại hình di cư

2020

2022

Di cư dưới 6 tháng

22,0

14,3

Di cư 6-dưới 12 tháng

9,0

0

Di cư 1-dưới 5 năm

69,0

85,7

Tổng số lao động di cư thất nghiệp (người)

1.744

1.011

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

Đối với nhóm lao động di cư với thời gian từ 1 năm đến dưới 5 năm, nhóm này thường đã qua giai đoạn “thích nghi ban đầu” với môi trường sống và làm việc mới. Sau khi vượt qua những khó khăn ban đầu, như tìm kiếm nhà ở và công việc tạm thời, họ bắt đầu đối mặt với những thách thức dài hạn hơn, như sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động, đặc biệt là trong các ngành nghề đòi hỏi kỹ năng cao. Trong khoảng thời gian này, họ cũng có thể phải đối diện với tình trạng hợp đồng lao động hết hạn, hoặc bị sa thải do các biến động kinh tế, dẫn đến tình trạng thất nghiệp kéo dài. Ngược lại, nhóm di cư với thời gian dưới 6 tháng hoặc từ 6 tháng đến dưới 1 năm thường bao gồm những người mới đến với kỳ vọng và động lực cao, hoặc đang trong giai đoạn tạm thời, chưa ổn định về chỗ ở và công việc. Nhiều người trong nhóm này có thể chỉ tạm thời thất nghiệp khi mới đến và nhanh chóng tìm được công việc mới do sẵn có nhu cầu tuyển dụng ngắn hạn hoặc công việc tạm thời. Ngoài ra, những người di cư trong khoảng thời gian ngắn thường có xu hướng chấp nhận bất kỳ công việc nào, kể cả các công việc có mức lương thấp hoặc không đúng với ngành nghề được đào tạo, công việc dành cho lao động phi chính thức nhằm nhanh chóng ổn định cuộc sống.

Nhìn chung, thời gian di cư dài hơn có thể dẫn đến sự gia tăng áp lực trong tìm kiếm việc làm ổn định, nhưng đồng thời, cũng làm tăng khả năng gặp phải các rủi ro trên thị trường lao động, chẳng hạn như mất việc do những thay đổi trong ngành công nghiệp hoặc khu vực mà họ cư trú. Mặt khác, những người mới di cư có thể linh hoạt hơn trong việc nắm bắt các cơ hội ngắn hạn và tạm thời, do họ chưa bị ràng buộc bởi các yếu tố gia đình hoặc các cam kết xã hội khác. Do đó, cần thiết phải có các chính sách hỗ trợ và đào tạo cho nhóm lao động di cư lâu năm, giúp họ thích nghi với môi trường làm việc mới và giảm thiểu nguy cơ thất nghiệp.

Lao động di cư thất nghiệp phân theo ngành đào tạo

Trong giai đoạn 2020-2022, số lượng lao động di cư được đào tạo, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ sơ cấp trở lên tại vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung thất nghiệp cũng giảm dần, từ 823 người xuống còn 654 người (Bảng 4).

Theo ngành đào tạo (Nhóm ngành được phân chia căn cứ vào Danh mục Giáo dục, Đào tạo cấp II theo Quyết định số 01/2017/QĐ-TTg, ngày 17/01/2017 về Ban hành danh mục Giáo dục, Đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân), kết quả tại Bảng 4 cho thấy, năm 2020, lao động di cư thất nghiệp chủ yếu là những người được đào tạo trong ngành Y tế và sức khỏe, Công nghệ kỹ thuật và Pháp luật. Điều này có thể xuất phát từ những thách thức mà các ngành này phải đối mặt trong thời điểm đại dịch Covid-19 bùng phát, khi nhu cầu về dịch vụ y tế tăng cao, nhưng các cơ hội việc làm lại bị hạn chế bởi các biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội. Đối với ngành Y tế và sức khỏe, Bộ Y tế đã đề cập đến một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhân viên y tế xin thôi việc, như: áp lực công việc cao trong thời điểm chống dịch Covid-19, lương và chế độ phụ cấp thấp, và các áp lực từ phía xã hội, gia đình và người thân (Cổng thông tin điện tử Bộ Y tế, 2022). Đối với ngành Công nghệ kỹ thuật và Pháp luật, sự giảm sút về số lượng dự án, hoạt động sản xuất và nhu cầu pháp lý cũng góp phần làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp trong các lĩnh vực này. Các tác động tiêu cực của dịch Covid-19 đến các doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp – xây dựng, khu vực dịch vụ, dẫn đến thu hẹp quy mô sản sản xuất, thậm chí ngừng hoạt động, giải thể, điều này dẫn đến tình trạng cắt giảm lao động (Bùi Thị Hồng, 2020; ILO, 2020; Nguyễn Quốc Việt và Đỗ Thị Hồng Thắm, 2020).

Trong năm 2022, lao động di cư thất nghiệp chủ yếu là những người được đào tạo ngành Sản xuất và chế biến, Kinh doanh và quản lý, và ngành Khoa học xã hội, nhân văn và hành vi. Sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp trong ngành Sản xuất và chế biến có thể được lý giải bởi những khó khăn trong chuỗi cung ứng toàn cầu và biến động kinh tế sau đại dịch, dẫn đến sự thu hẹp của các cơ sở sản xuất, cũng như giảm nhu cầu lao động trong lĩnh vực này (Nguyễn Bích Lâm, 2022). Ngành Kinh doanh và quản lý cũng chịu tác động nặng nề bởi các bất ổn kinh tế, dẫn đến việc cắt giảm nhân sự và gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Đối với các ngành Khoa học xã hội, nhân văn và hành vi, sự chuyển dịch ưu tiên trong nhu cầu lao động hướng đến các ngành kỹ thuật số và công nghệ có thể đã làm giảm cơ hội việc làm cho những người được đào tạo trong các lĩnh vực này.

Bảng 4: Tỷ lệ lao động di cư thất nghiệp vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung theo ngành đào tạo giai đoạn 2020-2022 (%)

Ngành đào tạo

2020

2022

Công nghệ kỹ thuật

19,3

10,4

Kinh doanh và quản lý

7,2

22,1

Y tế và sức khỏe

23,9

0

Pháp luật

18,3

0

Sản xuất và chế biến

0

53,3

Khoa học xã hội, nhân văn và hành vi

0

14,2

Khác

31,2

0

Tổng (%)

100

100

Tổng số lao động di cư được đào tạo chuyên môn thất nghiệp (người)

823

654

Nguồn: Kết quả phân tích của tác giả

GIẢI PHÁP

Tình trạng thất nghiệp của lao động di cư đến vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung trong giai đoạn 2020-2022 là kết quả tất yếu của đại dịch Covid-19, phản ánh sự mất cân đối trong cung - cầu lao động tại khu vực này. Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp đã có xu hướng giảm, nhưng vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần được giải quyết, nhằm cải thiện tình hình việc làm và ổn định thu nhập cho người lao động di cư. Những khó khăn này không chỉ bắt nguồn từ những biến động kinh tế do đại dịch, mà còn từ nhu cầu cấp thiết trong việc điều chỉnh và tái cấu trúc thị trường lao động của khu vực. Để giải quyết tình trạng thất nghiệp của lao động di cư đến vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, một số giải pháp cụ thể cần được triển khai, như:

Thứ nhất, cần đẩy mạnh phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm mới và việc làm bền vững. Thực tế khảo sát cho thấy, nhóm lao động di cư thất nghiệp chủ yếu thuộc về các nam giới trẻ trong độ tuổi 15-29, chưa kết hôn, có trình độ học vấn từ trung học phổ thông đến trung cấp và sống tại các vùng nông thôn. Từ đó, đặt ra nhu cầu bức thiết về việc phát triển các ngành kinh tế, đặc biệt phát triển những ngành là tiềm năng, thế mạnh của vùng nhằm tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn. Đồng thời, cần triển khai các chương trình đào tạo nghề phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động hiện đại, với trọng tâm là các ngành có tiềm năng phát triển, như: nông nghiệp công nghệ cao, du lịch sinh thái và công nghiệp chế biến.

Thứ hai, đẩy mạnh thu hút đầu tư và thúc đẩy sự phát triển bền vững của vùng (Vuong và Nguyen, 2024). Đại dịch Covid-19 và những biến động trong thị trường toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân tại một số tỉnh trong khu vực. Việc hỗ trợ các doanh nghiệp này vượt qua khó khăn và phục hồi sau đại dịch là rất quan trọng. Bên cạnh đó, cần có các cơ chế khuyến khích và thu hút đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế - xã hội nhằm tạo thêm việc làm và thúc đẩy sự phát triển bền vững cho khu vực.

Thứ ba, nhiều lao động di cư thất nghiệp đã được đào tạo chuyên môn nhưng lại chủ yếu tập trung vào một số ngành nghề cụ thể. Do đó, các chương trình đào tạo cần được điều chỉnh để đáp ứng sự đa dạng của thị trường lao động. Điều này bao gồm việc mở rộng đào tạo trong các lĩnh vực mới nổi và có nhu cầu cao, cùng với việc phát triển các kỹ năng mềm và kỹ năng linh hoạt để người lao động có thể chuyển đổi giữa các ngành nghề một cách dễ dàng. Ngoài ra, việc mở rộng các dịch vụ tư vấn nghề nghiệp và hỗ trợ chuyển đổi nghề cũng là một yếu tố cần thiết để giúp người lao động tận dụng tốt hơn kỹ năng chuyên môn của mình khi thị trường lao động thay đổi./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Thị Hồng (2020), Tình hình lao động việc làm ở Việt Nam dưới tác động của dịch Covid-19, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Cổng thông tin điện tử Bộ Y tế (2022), 18 tháng có 9.680 nhân viên y tế xin thôi việc, bỏ việc: Bộ Y tế chỉ ra 4 nguyên nhân chính, truy cập từ https://moh.gov.vn/tin-tong-hop/-/asset_publisher/k206Q9qkZOqn/content/18-thang-co-9-680-nhan-vien-y-te-xin-thoi-viec-bo-viec-bo-y-te-chi-ra-4-nguyen-nhan-chinh.

3. Cục Thống kê tỉnh Bình Thuận (2022), Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bình Thuận năm 2022.

4. Cục Thống kê tỉnh Thanh Hóa (2021), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2021.

5. ILO (2020), Đánh giá nhanh tác động của đại dịch Covid-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong một số ngành kinh tế chính: Ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi.

6. Nguyễn Anh Tuấn (2020), Tác động của Covid-19 đối với ngành du lịch Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

7. Nguyễn Bích Lâm (2022), Nhận diện xu hướng tái định hình chuỗi cung ứng toàn cầu. Báo điện tử Chính phủ: Xây dựng chính sách, pháp luật, truy cập từ https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/xu-huong-tai-dinh-hinh-chuoi-cung-ung-toan-cau-va-nhung-tac-dong-den-kinh-te-viet-nam-119220705134858721.htm.

8. Nguyễn Quốc Việt và Đỗ Thị Hồng Thắm (2020), Tác động của Covid-19 tới sự phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

9. Phạm Trương Hoàng, Trần Huy Đức, Ngô Đức Anh (2020), Tác động của đại dịch Covid-19 đến ngành du lịch Việt Nam và các giải pháp ứng phó, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 274, 43-53.

10. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2022), Báo cáo tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh năm 2022; nhiệm vụ và giải pháp năm 2023.

11. Vuong, Q. H., Nguyen, M. H. (2024). Better Economics for the Earth: A Lesson from Quantum and Information Theories. AISDL.

Ngày nhận bài: 06/9/2024; Ngày phản biện: 12/9/2024; Ngày duyệt đăng: 23/9/2024