Việt Nam cần nỗ lực nhiều hơn nữa mới có thể đạt tăng trưởng 6-6,5% cả năm 2022
8 điểm sáng trong bức tranh kinh tế Việt Nam
TS. Cấn Văn Lực (ảnh tư liệu) |
Trong bối cảnh dịch bệnh vẫn tiếp tục dai dẳng, nhưng với độ bao phủ vaccine cao (hơn 82% dân số tính đến hết quý I/2022) cùng với việc Chính phủ nỗ lực, quyết liệt khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội, kinh tế Việt Nam phục hồi ngày càng rõ nét hơn, với 8 điểm sáng.
Thứ nhất, dịch bệnh tiếp tục được kiểm soát và chuyển biến tích cực, Chính phủ quyết liệt khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội: mặc dù dịch bệnh diễn biến phức tạp song cơ bản được kiểm soát và chuyển biến tích cực từ tháng 3 khi số ca chuyển bệnh nặng và số ca tử vong giảm mạnh. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 38/NQ-CP ngày 17/3/2022 về Chương trình phòng, chống dịch Covid-19 với phương châm nhất quán là “sống chung an toàn với Covid”, trong đó đẩy nhanh tiêm mũi tăng cường và tiêm vaccine cho trẻ em. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội và Nghị quyết 02/NQ-02 về cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh năm 2022; Nghị quyết 11/NQ-CP (ngày 30/1/2022) về chương trình phục hồi và phát triển KT-XH nhằm triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 (ngày 11/1/2022) của Quốc hội...v.v. Những chính sách này đã và đang giúp nền kinh tế phục hồi, tạo đà cho cả năm 2022.
Thứ hai, tăng trưởng GDP quý I/2022 khả quan, ước đạt 5,03%, cao hơn mức tăng 4,72% và 3,66% của quý I hai năm trước. Đây là mức tăng trưởng khá, trong bối cảnh còn dịch bệnh, căng thẳng địa chính trị và áp lực lạm phát, giá cả tăng; đạt mục tiêu của Chính phủ tại Nghị quyết 01 (4,9-5,4%). Động lực tăng trưởng chính là khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,38% (đóng góp 51,08% vào mức tăng trưởng chung) và khu vực dịch vụ tăng 4,58% (đóng góp 43,16%).
Tuy nhiên, đây vẫn là mức thấp hơn mức tăng 6,85% của quý I năm 2019 cho thấy, cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong 3 quý tiếp theo mới có thể đạt mức tăng trưởng 6-6,5% cả năm 2022 như đã đề ra.
Thứ ba, xuất - nhập khẩu tăng trưởng tích cực, cán cân thương mại thặng dư. Trong quý I, tổng kim ngạch XNK đạt 176,4 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, xuất khẩu hàng hóa ước đạt 88,6 tỷ USD, tăng 12,9%; kim ngạch nhập khẩu ước đạt 87,8 tỷ USD, tăng 15,9%; cán cân thương mại thặng dư hơn 800 triệu USD. Dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, cùng với các FTA đã có hiệu lực (bao gồm cả RCEP có hiệu lực từ ngày 1/1/2022), tiếp tục mở ra nhiều cơ hội mới cho hoạt động thương mại, đầu tư và du lịch của Việt Nam, nhất là khi các đối tác chính của Việt Nam vẫn duy trì phục hồi, dù Trung Quốc có thể tăng trưởng chậm hơn.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng trưởng tích cực: lũy kế đến hết ngày 20/3/2022, vốn FDI đăng ký ước đạt 8,91 tỷ USD, giảm 12% so với cùng kỳ (chủ yếu do vốn đăng ký cấp mới chỉ đạt 3,21 tỷ USD, giảm 55,5%, nhưng tăng 37,6% về số dự án); vốn đăng ký bổ sung tăng mạnh (4,07 tỷ USD, tăng 93,8%); vốn góp, mua cổ phần cũng tăng mạnh 101,2%, đạt 1,63 tỷ USD. Giải ngân vốn FDI đạt 4,42 tỷ USD, tăng 7,8% - là mức cao nhất của quý I trong 5 năm qua, cho thấy tình hình giải ngân vốn FDI tại Việt Nam tiếp tục khả quan, nhờ Việt Nam đã kiểm soát được dịch bệnh, thực hiện tốt chiến lược bao phủ vaccine, tích cực mở cửa nền kinh tế và quyết tâm cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh.
Thứ năm, thu NSNN duy trì đà tích cực nhưng thiếu bền vững và chi đầu tư phát triển còn chậm. Tổng thu NSNN quý I đạt gần 360 nghìn tỷ đồng, bằng 25,5% dự toán năm và tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2021 nhờ thu từ dầu thô tăng mạnh (+64,6%), thu từ XNK tăng 36,7%, thu tiền sử dụng đất tăng 28%, thu nội địa tăng 7,4% cho thấy tín hiệu phục hồi tích cực của các hoạt động sản xuất, kinh doanh và xuất - nhập khẩu. Tuy nhiên, một số nguồn thu từ dầu thô, XNK, tiền sử dụng đất còn thiếu bền vững vì phụ thuộc khá nhiều khách quan bên ngoài và đất đai.
Tổng chi NSNN 3 tháng đầu năm ước đạt 278,8 nghìn tỷ đồng, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm 2021, mới đạt 15,6% dự toán năm; trong đó chi đầu tư phát triển mới đạt 9% dự toán năm, chủ yếu do giải ngân đầu tư công còn chậm.
Thứ sáu, lãi suất và tỷ giá cơ bản ổn định: mặt bằng lãi suất cho vay trong quý I duy trì xu hướng ổn định, song lãi suất huy động có dấu hiệu tăng tại một số ngân hàng từ đầu tháng 3 (mức tăng khoảng 0,2-0,4%). Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất có xu hướng tăng nhẹ dù vẫn duy trì ở mức thấp trong bối cảnh thanh khoản không còn quá dồi dào (quý I tín dụng tăng 5,04%, trong khi huy động vốn ước tăng khoảng 3% so với cùng kỳ) và áp lực lạm phát lớn dần. Tỷ giá VND/USD tăng nhẹ, VND chỉ mất giá 0,21% so với USD dù đồng USD tăng giá so với hầu hết các ngoại tệ khác (chỉ số đồng Đôla tăng 4% so với đầu năm).
Thứ bảy, hoạt động doanh nghiệp khởi sắc: trong quý I, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng mạnh nhất trong 5 năm qua và số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động cũng tăng 73,6% so với cùng kỳ cho thấy doanh nghiệp đang phục hồi. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn đối mặt nhiều khó khăn như dịch bệnh còn diễn biến phức tạp; rủi ro bên ngoài gia tăng; giá nguyên vật liệu (xăng, dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, nhân công…) đều tăng, dẫn đến lợi nhuận biên bị thu hẹp; số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn vẫn tăng 49,7% so với cùng kỳ.
Thứ tám, hoạt động du lịch phục hồi tích cực, song vẫn đối mặt với rủi ro dịch bệnh và thách thức bởi xung đột Nga - Ukraina. Trong quý I, Việt Nam đã mở cửa du lịch hoàn toàn từ ngày 15/3/2022 trong điều kiện bình thường mới, khách quốc tế đến Việt Nam ước tăng 89% so với cùng kỳ năm trước và lĩnh vực du lịch được dự báo sẽ tiếp tục hồi phục mạnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, du lịch đang phải đối mặt với rủi ro tình hình dịch bệnh có thể bùng phát trở lại và tác động tiêu cực do xung đột Nga – Ukraina, làm giảm hẳn lượng khách Nga đến Việt Nam (khoảng gần 700.000 khách Nga đến Việt Nam năm 2019)…v.v. Do đó, kế hoạch phục hồi ngành này dự báo sẽ bị ảnh hưởng khá nhiều và cần nhiều nỗ lực mới có thể đạt mục tiêu 8-9 triệu khách quốc tế và 65-70 triệu lượt khách nội địa trong giai đoạn 2022-2023.
Nhận diện 4 rủi ro, thách thức
Chỉ số CPI tháng 3/2022 tăng 0,7% so với tháng trước (cao nhất trong vòng 11 năm) với hầu hết các nhóm hàng hóa, dịch vụ tăng giá |
Trong bối cảnh dịch bệnh vẫn chưa hoàn toàn được kiểm soát, rủi ro từ bên ngoài (đặc biệt là xung đột Nga - Ukraina và biện pháp trừng phạt của phương Tây và trả đũa của Nga còn phức tạp, khó đoán định); nền kinh tế nước ta vẫn phải đối mặt với ít nhất là 4 khó khăn, thách thức.
Thứ nhất, dịch Covid-19 trên thế giới và Việt Nam vẫn diễn biến phức tạp, với sự xuất hiện của biến thể mới có ảnh hưởng không nhỏ đến kế hoạch mở cửa và phục hồi kinh tế - xã hội; đòi hỏi cần tiếp tục theo dõi sát sao, đẩy nhanh tiến trình vaccine và có phương án, kịch bản ứng phó phù hợp.
Thứ hai, áp lực lạm phát đang gia tăng: chỉ số CPI tháng 3/2022 tăng 0,7% so với tháng trước (cao nhất trong vòng 11 năm) với hầu hết các nhóm hàng hóa, dịch vụ tăng giá. Trong quý I, CPI bình quân tăng 1,92% so với cùng kỳ năm 2021, cao hơn nhiều so với mức 0,29% của quý I/2021; lạm phát cơ bản tăng 0,81% (cao hơn mức 0,67% cùng kỳ năm trước). Áp lực lạm phát tăng dần do cả yếu tố cầu kéo (kinh tế phục hồi, nhu cầu tăng) và chi phí đẩy (do giá cả hàng hóa, dịch vụ thế giới tăng mạnh, khiến chi phí đầu vào, chi phí lưu thông, kho bãi, giá lương thực, thực phẩm đều tăng). Phân rã cho thấy riêng lĩnh vực giao thông và nhà ở, vật liệu xây dựng đóng góp tới hơn 80% mức tăng CPI chung trong quý I.
Thứ ba, giải ngân đầu tư công chậm, chưa đạt như kỳ vọng: mặc dù vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN tăng 10,6% so với cùng kỳ 2021, nhưng là mức thấp hơn so với cùng kỳ 2 năm trước, mới đạt 14,4% so với kế hoạch năm, chưa đạt kỳ vọng của Chính phủ dù đã có nhiều đôn đốc và biện pháp thời gian qua, cho thấy đây vẫn là thách thức lớn.
Thứ tư, nợ xấu vẫn là thách thức: trong bối cảnh dịch bệnh vẫn còn có thể tiếp diễn trong năm 2022, doanh nghiệp dù hồi phục song vẫn còn nhiều khó khăn, một số lĩnh vực dịch vụ phục hồi chậm, khiến nợ xấu có xu hướng gia tăng. Theo NHNN, đến hết năm 2021, tỷ lệ nợ xấu nội bảng khoảng 1,5%, nhưng nếu tính cả nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý được và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản nợ được cơ cấu lại thì tỷ lệ nợ xấu gộp có thể khoảng 6,3% (so với mức 5,1% cuối năm 2020). Với đà này, dự báo nợ xấu nội bảng có thể lên mức 2% và nợ xấu gộp sẽ khoảng 6% năm 2022 và sẽ là thách thức khi các chính sách giãn hoãn nợ, cơ cấu lại nợ và Nghị quyết 42 của Quốc Hội về xử lý nợ xấu hết hiệu lực. Điều này đặt ra yêu cầu gia hạn, điều chỉnh Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu (sẽ hết hiệu lực từ ngày 15/8/2022) cùng với nỗ lực của các TCTD trong việc tăng dự phòng rủi ro và xử lý nợ xấu.
Ba kịch bản tăng trưởng năm 2022 và một số khuyến nghị cho Việt Nam
Dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2021 và 2022 của các tổ chức quốc tế |
Ba kịch bản tăng trưởng GDP năm 2022: dự báo kinh tế Việt Nam sẽ lấy lại đà phục hồi mạnh mẽ, nhờ độ bao phủ vaccine cao, thay đổi chiến lược phòng chống dịch phù hợp, khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội trong điều kiện bình thường mới. Theo đó, với kịch bản tích cực, tăng trưởng GDP vẫn có thể đạt khoảng 6-6,5% nếu Việt Nam thực hiện tốt Chương trình phòng, chống dịch, Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế xã hội 2022-2023 và giảm thiểu rủi ro, tác động tiêu cực từ xung đột Nga – Ukraina. Ở kịch bản trung bình, tăng trưởng có thể đạt 5,5-6%; và ở kịch bản tiêu cực, tăng trưởng có thể chỉ đạt 4,5-5%.
Về lạm phát: áp lực lạm phát, giá cả hàng hóa, dịch vụ toàn cầu ở mức cao cùng với đà phục hồi kinh tế của Việt Nam cao hơn năm 2021; độ trễ của chính sách tài khóa, tiền tệ mở rộng cùng với việc thực hiện Chương trình phục hồi sẽ là những thách thức chính đối với mục tiêu kiểm soát lạm phát năm 2022. Tính đến sự cải thiện sức cầu, sự sôi động trở lại của các hoạt động kinh tế xã hội và tác động vòng 2, vòng 3 của việc tăng giá xăng dầu, CPI bình quân năm 2022 dự báo sẽ ở mức 3,8-4,2%, có thể cao hơn mục tiêu 4% nhưng chấp nhận được trong bối cảnh lạm phát toàn cầu tăng mạnh và Việt Nam cần ưu tiên phục hồi năm nay.
Với những phân tích và dự báo như trên, chúng tôi đưa ra 6 kiến nghị như sau.
Một là, Chính phủ chỉ đạo thực hiện hiệu quả Nghị quyết 38/NQ-CP (ngày 17/3/2022) về phòng, chống dịch, với phương châm nhất quán là “sống chung an toàn với Covid”, trong đó cần đẩy nhanh tiêm mũi tăng cường và tiêm vaccine cho trẻ em; sớm triển khai Nghị quyết 12 (2021) của UBTVQH về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19 và chương trình nâng cao năng lực y tế.
Hai là, Chính phủ chỉ đạo nhất quán thực hiện các mục tiêu, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết 01 và 02; thực thi đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả và nhanh chóng các nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết 43 của Quốc hội và Nghị quyết 11 của Chính phủ về Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội 2022-2023; trong đó các bộ, ngành cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện và tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh.
Ba là, kiên trì mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô; kiểm soát lạm phát và phối hợp chính sách hiệu quả, nhất là giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác nhằm: (i) thực hiện thành công Chương trình phục hồi, phát triển KT-XH, (ii) quản lý tốt giá xăng dầu, giá cả hàng hóa, dịch vụ khác nhằm kiểm soát lạm phát ở mức mục tiêu 4%; (iii) Nâng cao năng lực phân tích, dự báo, hệ thống chia sẻ thông tin phục vụ hiệu quả phối hợp chính sách và kiểm soát rủi ro phát sinh.
Bốn là, quyết liệt đẩy mạnh giải ngân đầu tư công đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, nâng cấp cơ sở hạ tầng đồng bộ, trong đó tập trung vào các dự án chuyển tiếp, hoàn thành trong năm 2022; đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hồ sơ dự án, giao kế hoạch, giải phóng mặt bằng; kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Năm là, chú trọng đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, nhất là với các cấu phần quan trọng (DNNN, TCTD, đầu tư công và đơn vị sự nghiệp công…) nhằm huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn; thực hiện tốt các mục tiêu về cơ cấu lại nền kinh tế mà Nghị quyết Đại hội XIII và Nghị quyết 31/2021/QH15 đã đề ra.
Sáu là, cần đẩy nhanh hoàn thiện thể chế; xây dựng hành lang pháp lý cho việc quản lý, phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, xã hội và chính quyền số. Cùng với đó, đẩy mạnh cải cách hành chính một cách thực chất, thiết thực, trong đó việc ưu tiên tháo gỡ các rào cản, điểm nghẽn là rất cần thiết nhằm huy động và giải phóng nguồn lực, nhất là trong các lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, đất đai, xây dựng, thủ tục XNK, giải thể doanh nghiệp… như Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã chỉ ra.
Bình luận