CÁC CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP KHCN TẠI ĐHQGHN

Tại ĐHQGHN, các căn cứ để xây dựng chính sách phát triển doanh nghiệp KHCN gồm có:

Chiến lược phát triển KHCN của ĐHQGHN đến năm 2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 155/QĐ-ĐHQGHN, ngày 09/01/2015): Chiến lược đã xác định rõ định hướng nhiệm vụ ưu tiên trong từng lĩnh vực KHCN, gồm: khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và y dược, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học liên ngành.

Có thể thấy, ĐHQGHN chú trọng việc gắn hoạt động KHCN với nhiệm vụ của quốc gia, coi khoa học cơ bản là nền tảng không thể thiếu, đồng thời coi trọng sản phẩm đầu ra, gắn liền KHCN với đào tạo và hội nhập quốc tế. Khác với nhiều trường đại học khác, ĐHQGHN đã có những định hướng và định vị các chỉ số phát triển rất cụ thể về nghiên cứu khoa học (NCKH), trong đó có nhiều tiêu chí có liên quan hoặc gần gũi với tiêu chí tại các bảng xếp hạng đại học của thế giới. Định hướng này cho thấy, ĐHQGHN đã chủ động hội nhập với thế giới trong hoạt động NCKH - một hoạt động có ý nghĩa quan trọng, dẫn dắt và thúc đẩy hoạt động đào tạo, cung cấp dịch vụ của trường đại học.

Đề xuất chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học, công nghệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội

Sinh viên Ðại học Quốc gia Hà Nội thực hành nghiên cứu khoa học

Quy trình xây dựng kế hoạch, mục tiêu NCKH ở các đơn vị trong ĐHQGHN thường được triển khai theo cách hỗn hợp từ trên xuống và từ dưới lên, các đơn vị có thể giao chỉ tiêu cho khoa, bộ môn, cá nhân giảng viên có thể đăng ký chỉ tiêu, sau đó đơn vị cùng khoa/bộ môn thống nhất mức chỉ tiêu đạt được hàng năm và ban hành văn bản, báo cáo ĐHQGHN. Kế hoạch NCKH của đơn vị còn được báo cáo, giám sát bởi ĐHQGHN qua hệ thống phần mềm kế hoạch nhiệm vụ. Định kỳ hàng năm, đơn vị tổng kết tình hình thực hiện mục tiêu làm căn cứ đánh giá giảng viên và báo cáo kết quả cho ĐHQGHN. Các mục tiêu thường được lượng hóa cụ thể, bao gồm các chỉ số: số bài báo khoa học trong nước, số bài báo khoa học quốc tế thuộc hệ thống ISI và SCOPUS, số sách chuyên khảo tiếng Việt và tiếng nước ngoài, số phát minh số thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu hợp tác doanh nghiệp, số doanh nghiệp, vườn ươm KHCN được thành lập...

Một số thể chế quản lý và phát triển NCKH

ĐHQGHN đã phát triển một hệ thống thể chế (chính thức hoặc không chính thức, thuộc ĐHQGHN hoặc thuộc các đơn vị trong ĐHQGHN) để hỗ trợ, phát triển hoạt động NCKH, bao gồm:

- Hội đồng khoa học và đào tạo, các hội đồng chuyên môn: Hội đồng Khoa học và Đào tạo ở ĐHQGHN và ở các đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc có nhiệm vụ tư vấn cho ban lãnh đạo về định hướng, kế hoạch, chính sách phát triển KHCN. 8 hội đồng chuyên môn của ĐHQGHN có trách nhiệm xác định, đề xuất quy hoạch, kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm; các hướng phát triển ưu tiên và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động KHCN và đào tạo theo lĩnh vực chuyên môn trong ĐHQGHN.

- Các đơn vị thành viên, đơn vị trực thuộc ĐHQGHN: Trong số 34 đơn vị của ĐHQGHN, có 19 đơn vị có chức năng, nhiệm vụ phát triển KHCN. Bên cạnh đó, ĐHQGHN còn có hệ thống 14 đơn vị dịch vụ, hỗ trợ (trong đó có hỗ trợ cho công tác NCKH). Trong số này, một số đơn vị có nhiệm vụ hỗ trợ trực tiếp cho công tác NCKH gồm: Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nhà xuất bản ĐHQGHN, Trung tâm Chuyển giao tri thức và hỗ trợ khởi nghiệp, Trung tâm Thông tin thư viện ĐHQGHN. Đáng chú ý là hệ thống tạp chí khoa học với 9 chuyên san thuộc các lĩnh vực. Đặc biệt, năm 2020, Chuyên san Vật liệu và Linh kiện tiên tiến được SCImago xếp trong danh sách 25% tạp chí khoa học uy tín nhất thế giới (Đảng bộ ĐHQGHN, 2020).

- Quỹ Phát triển KHCN ĐHQGHN được thành lập từ năm 2008, nhằm mục tiêu tài trợ, hỗ trợ, thúc đẩy phát triển nghiên cứu, triển khai ứng dụng KHCN, phát triển tiềm lực KHCN và nâng cao vị thế của ĐHQGHN. Quỹ có các chức năng, nhiệm vụ hỗ trợ hoạt động NCKH, như: tiếp nhận, quản lý các nguồn vốn; tổ chức thẩm định và quyết định tài trợ, cho vay đối với các đề tài, dự án, hội nghị hội thảo và các đề xuất khác từ các đơn vị, cá nhân của ĐHQGHN; kiểm tra, quản lý, nghiệm thu, đánh giá việc thực hiện các đề tài, dự án nhận tài trợ, vay vốn; phát triển quan hệ với tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước để thu hút tài trợ, cho vay để thực hiện các dự án KHCN và thực hiện các hoạt động phát triển vốn...

- Câu lạc bộ nhà khoa học ĐHQGHN được thành lập từ tháng 02/2013, nhằm kết nối các nhà khoa học trong và ngoài ĐHQGHN. Câu lạc bộ có chức năng hỗ trợ, cung cấp thông tin cho các nhà khoa học giao lưu với nhau, tiếp xúc với các đối tác trong và ngoài nước; kết nối tri thức, thiết lập và phát triển môi trường học thuật để phát huy tối đa năng lực cá nhân, nâng cao trình độ, trao đổi kinh nghiệm học thuật, giảng dạy và NCKH; giúp xây dựng tiền đề hình thành các nhóm nghiên cứu tiềm năng, nhóm nghiên cứu mạnh, nhóm nghiên cứu liên ngành.

- Các nhóm nghiên cứu: ĐHQGHN đã phát triển được 30 nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQGHN, gần 100 nhóm nghiên cứu cấp đơn vị trong nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Trong số đó, có nhiều nhóm nghiên cứu liên ngành và xuyên ngành. Các nhóm nghiên cứu mạnh và tiềm năng đều được ĐHQGHN công nhận chính thức. Trưởng nhóm nghiên cứu mạnh ở các đơn vị được hưởng phụ cấp trách nhiệm tương đương trưởng khoa. Khi nhóm nghiên cứu có các đề tài và dự án lớn, đơn vị và ĐHQGHN có thể thành lập ban quản lý dự án, có con dấu và tài khoản riêng, giao cho trưởng nhóm nghiên cứu phụ trách. Cơ chế này nhằm hạn chế việc thành lập các trung tâm nghiên cứu có bộ máy hành chính cồng kềnh, mà năng lực NCKH có thể chưa cao. Ngoài ra, ở các đơn vị còn có các nhóm nghiên cứu do cán bộ khoa học tự kết nối và làm việc với nhau. Tùy từng đơn vị, các nhóm nghiên cứu này có thể được công bố công khai, chính thức, được hỗ trợ và khuyến khích ở các mức độ khác nhau.

Chính sách quản lý các hoạt động NCKH nói chung

ĐHQGHN đã ban hành Quy định về quản lý hoạt động KHCN kèm theo Quyết định số 286/QĐ-ĐHQGHN, ngày 16/01/2015. Theo đó, ĐHQGHN “thống nhất quản lý và điều hành” các nguồn lực thực hiện các hoạt động KHCN bao gồm: nguồn nhân lực; hệ thống phòng thí nghiệm, trang thiết bị nghiên cứu; kinh phí từ các nguồn khác nhau. Quy trình tuyển chọn, xét chọn và phê duyệt các nhiệm vụ đều thực hiện chặt chẽ theo quy định của ĐHQGHN, Bộ KHCN và các quy định của Nhà nước. Riêng nhiệm vụ KHCN cấp cơ sở, thì các đơn vị có thể ban hành quy định về quản lý và tổ chức thực hiện phù hợp với quy định của Nhà nước và của ĐHQGHN, định kỳ hoặc đột xuất báo cáo ĐHQGHN.

Đối với nhiệm vụ KHCN hợp tác trong nước, việc xét chọn, tuyển chọn, phê duyệt và quản lý đề tài, dự án hợp tác thực hiện phù hợp với quy định, thỏa thuận của hai bên. Đối với nhiệm vụ KHCN hợp tác quốc tế, nếu kinh phí hoàn toàn từ nước ngoài tài trợ, thì thực hiện theo các văn bản pháp quy của Nhà nước và quy định của các chương trình tài trợ. Nếu nhiệm vụ KHCN theo Nghị định thư thì thực hiện theo quy định của Bộ Khoa học và Công nghệ. Nếu nhiệm vụ KHCN có sử dụng kinh phí của ĐHQGHN, thì thực hiện quy trình đề xuất, tuyển chọn, phê duyệt và quản lý theo Quy định của ĐHQGHN và các quy định của Nhà nước về hợp tác quốc tế trong KHCN.

Đối với việc quản lý đầu tư thuộc lĩnh vực KHCN, dự án đầu tư xây dựng cơ bản (từ nguồn vốn đầu tư phát triển cho KHCN), dự án tăng cường năng lực nghiên cứu (từ nguồn vốn sự nghiệp KHCN) và các dự án đầu tư khác cho KHCN (từ các nguồn vốn hợp pháp khác), ĐHQGHN xây dựng kế hoạch trung hạn, hàng năm, phê duyệt các dự án đầu tư phù hợp với kế hoạch trung hạn đó. Đối với các dự án cấp ĐHQGHN, sau khi có kế hoạch trung hạn, việc thẩm định các dự án có thể thực hiện bất kì thời điểm nào trong năm. ĐHQGHN quyết định chủ đầu tư các dự án theo hiệu quả, phù hợp với năng lực, liên thông, liên kết trong toàn ĐHQGHN.

Về hội nghị, hội thảo khoa học, Giám đốc ĐHQGHN và thủ trưởng đơn vị quyết định việc tổ chức hội thảo, hội nghị trong nước của cấp mình. Đơn vị ban hành quy định của đơn vị và quản lý hội nghị, hội thảo của các đơn vị cấp dưới trực tiếp. Đối với hội nghị, hội thảo khoa học quốc tế, đơn vị cần lập đề án, báo cáo ĐHQGHN phê duyệt trước khi triển khai.

Hoạt động dịch vụ và chuyển giao KHCN được thực hiện theo Luật Khoa học và Công nghệ, chưa có quy định cụ thể riêng của ĐHQGHN. Các đơn vị có thể ban hành quy định về hoạt động dịch vụ và chuyển giao KHCN riêng phù hợp với nội dung và tính chất của đơn vị, với quy định của Nhà nước và của ĐHQGHN.

Các quy định về khen thưởng, xử lý vi phạm, đạo đức trong hoạt động KHCN cũng đã được quy định cụ thể; trong đó có các hình thức khen thưởng định kỳ và đột xuất đối với cá nhân có thành tích xuất sắc về hoạt động KHCN. Hằng năm, trên cơ sở thống kê thông tin KHCN trên cổng thông tin của ĐHQGHN và cơ sở dữ liệu ISI, Scopus, ĐHQGHN đánh giá hiệu quả hoạt động KHCN của các đơn vị, cá nhân làm cơ sở cho việc phân bổ các nguồn lực và đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ.

Chính sách quản lý nhiệm vụ KHCN cấp ĐHQGHN

ĐHQGHN đã ban hành Quy định quản lý nhiệm vụ KHCN cấp ĐHQGHN theo Quyết định số 3839/QĐ-ĐHQGHN, ngày 24/10/2014. Theo đó, đối với các nhiệm vụ KHCN cấp ĐHQGHN, thì ĐHQGHN có chính sách quy định riêng, trong đó xác định danh mục đề tài, quy trình tuyển chọn và xét chọn, phê duyệt và giao đề tài, tổ chức thực hiện đề tài, đánh giá nghiệm thu, quản lý, sử dụng kết quả. Đơn vị chủ trì đề tài KHCN cấp ĐHQGHN là các đơn vị thành viên, trực thuộc được ĐHQGHN giao quản lý, tổ chức thực hiện đề tài KHCN cấp ĐHQGHN. Đối với đề tài KHCN giao trực tiếp, Giám đốc ĐHQGHN có thể giao đề tài và ký hợp đồng thực hiện với chủ nhiệm là nhà khoa học ngoài ĐHQGHN đáp ứng yêu cầu và có khả năng hoàn thành đề tài.

Về phương thức giao đề tài KHCN, đề tài KHCN cấp ĐHQGHN sử dụng ngân sách nhà nước được thực hiện theo hình thức đặt hàng và giao qua tuyển chọn hoặc giao trực tiếp. Về quy trình xác định danh mục đối với các đề tài KHCN giao qua tuyển chọn: ĐHQGHN thông báo, các nhà khoa học đề xuất đề tài, các đơn vị thẩm định và tổng hợp gửi ĐHQGHN, hội đồng ngành, liên ngành ĐHQGHN họp xác định danh mục đề tài. Đối với các đề tài KHCN giao trực tiếp, ĐHQGHN căn cứ nhiệm vụ cụ thể hằng năm, xác định đề tài KHCN cần giao trực tiếp, thành lập hội đồng hoặc tổ tư vấn xây dựng danh mục đề tài KHCN. Hàng năm, Giám đốc ĐHQGHN phê duyệt danh mục các đề tài KHCN đặt hàng.

Về kinh phí, ĐHQGHN thống nhất quản lý và điều phối việc sử dụng các nguồn kinh phí nêu trên theo các quy định hiện hành của Nhà nước và của ĐHQGHN.

Chính sách về giải thưởng KHCN của ĐHQGHN

ĐHQGHN có chính sách riêng về giải thưởng KHCN (Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 1650/QĐ-ĐHQGHN, ngày 21/5/2018). Giải thưởng được xét tặng 03 năm một lần dành cho tối đa 05 công trình KHCN đặc biệt xuất sắc, có tầm vóc khoa học và ý nghĩa thực tiễn cao, tiêu biểu cho các lĩnh vực của ĐHQGHN. Tác giả là cá nhân hoặc tập thể trong và ngoài ĐHQGHN công bố có ghi địa chỉ của ĐHQGHN. Bên cạnh đó, các đơn vị thành viên và trực thuộc ĐHQGHN cũng có những chính sách hỗ trợ công bố khoa học quốc tế với định mức tùy theo khả năng, nguồn lực và quy mô giảng viên của đơn vị. Thông thường, chính sách này được tích hợp tại Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị, được lấy ý kiến rộng rãi của cán bộ giảng viên trước khi ban hành.

Chính sách xây dựng và phát triển các chương trình nghiên cứu trọng điểm và nhóm nghiên cứu mạnh

Với mô hình phát triển theo định hướng đại học nghiên cứu, ĐHQGHN chú trọng thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các nhóm nghiên cứu. Từ năm 2013, ĐHQGHN là đơn vị đi đầu trong hệ thống giáo dục đại học cả nước trong việc ban hành Hướng dẫn số 1409/HD-KHCN, ngày 08/5/2013 về “Xây dựng và phát triển các chương trình nghiên cứu trọng điểm và nhóm nghiên cứu mạnh ở ĐHQGHN”.

ĐHQGHN đã quy định một số chính sách đầu tư, hỗ trợ đối với nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQGHN, bao gồm: (1) Giảng viên tham gia nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQGHN chỉ thực hiện định mức giảng dạy không quá 150 giờ tín chỉ quy chuẩn/năm để ưu tiên dành thời gian cho NCKH. Sau 5 năm giảng dạy, giảng viên được nghỉ giảng dạy 01 học kỳ để tập trung toàn bộ thời gian cho nhiệm vụ nghiên cứu ở trong hoặc ngoài nước; (2) Được cung cấp quyền truy cập thông tin khoa học từ các cơ sở dữ liệu của SCI, Sciendirect…; (3) Được đầu tư trang thiết bị, điều kiện nghiên cứu thông qua các dự án đầu tư phát triển, dự án tăng cường năng lực nghiên cứu của ĐHQGHN hoặc của đơn vị; được ưu tiên sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng chung của ĐHQGHN; (4) Được đầu tư kinh phí nghiên cứu theo phương thức đặt hàng, giao nhiệm vụ KHCN (top-down) hoặc ưu tiên xét duyệt các đề tài do nhóm đề xuất trong khuôn khổ các chương trình nghiên cứu tương ứng; (5) Được ưu tiên nhận hướng dẫn nghiên cứu sinh và học viên cao học làm luận án, luận văn theo hình thức đào tạo tập trung; (6) Đối với các nhóm nghiên cứu hình thành trên cơ sở các phòng thí nghiệm, bộ môn, khoa, trung tâm nghiên cứu... được ưu tiên bổ sung nhân lực nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu, đào tạo; (7) Được hỗ trợ về cơ chế và các nguồn lực để thực hiện chính sách thu hút các nhà khoa học xuất sắc ở trong và ngoài nước đến làm việc trực tiếp hoặc trực tuyến. Các công trình nghiên cứu do hợp tác chung được công bố quốc tế, nhưng chưa có bất cứ tài trợ nào ở trong nước sẽ được ĐHQGHN hỗ trợ; (8) Được hỗ trợ tham gia các hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế có xuất bản công trình trong hệ thống ấn phẩm của ISI hoặc Scopus. Ngoài ra, các nhóm nghiên cứu mạnh cấp đơn vị được hưởng các chính sách hỗ trợ như nhóm nghiên cứu mạnh cấp ĐHQGHN, trừ một số nội dung có ưu tiên ở mức độ thấp hơn.

Ngoài các chính sách trên, ĐHQGHN còn có quy định, cơ chế hỗ trợ khác, như: ưu tiên thu hút nhà khoa học có khả năng dẫn đầu nhóm nghiên cứu mạnh, trưởng nhóm nghiên cứu mạnh được hưởng phụ cấp trách nhiệm tương đương trưởng phòng thí nghiệm trọng điểm trở lên ở đơn vị; hỗ trợ và khuyến khích đăng ký bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích với mức hỗ trợ tùy theo loại đơn đăng ký; hỗ trợ nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên công bố quốc tế và đăng ký quyền sở hữu trí tuệ.

ĐÁNH GIÁ CHUNG

Các văn bản quy phạm của ĐHQGHN đều tập trung phát triển KHCN. Chưa có khung pháp lý và các văn bản, thể chế quy định về các chính sách phát triển doanh nghiệp KHCN tại ĐHQGHN.

Nhìn chung, các thể chế, chính sách hỗ trợ và quản lý của ĐHQGHN đã tương đối đầy đủ, chi tiết, bao trùm các nội dung cần thiết của hoạt động NCKH, làm căn cứ quan trọng cho việc triển khai các hoạt động KHCN. Một số chính sách về phát triển nhóm nghiên cứu mạnh, giải thưởng KHCN thể hiện rõ sự quan tâm, ưu tiên đầu tư cho KHCN của ĐHQGHN.

Qua các chính sách này, có thể thấy, ĐHQGHN và các đơn vị thành viên đã nhận thức được tầm quan trọng của việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu, thành lập các doanh nghiệp KHCN trong trường đại học. Mục tiêu về phát triển doanh nghiệp KHCN nhằm thương mại hóa kết quả nghiên cứu đã được đưa vào tầm nhìn và định hướng chiến lược của các cơ sở đào tạo. Đồng thời, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được phép sử dụng tài sản và các nguồn lực về con người thuộc sở hữu của cơ sở giáo dục. Điều này có thể khuyến khích doanh nghiệp thành lập nhờ giảm được một số chi phí liên quan.

Tuy vậy, tính đến thời điểm hiện tại, các văn bản quy phạm của ĐHQGHN đều tập trung phát triển KHCN. Chưa có khung pháp lý và các văn bản, thể chế quy định về các chính sách phát triển doanh nghiệp KHCN tại ĐHQGHN. Việc thiếu quy định rõ ràng về trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên liên quan trong doanh nghiệp đã gây nên sự xung đột về lợi ích giữa các bên. Đồng thời, thiếu các quy định liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp trong trường đại học, như: quy định về định giá và sử dụng tên, thương hiệu, vốn và tài sản có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước giao và quyền sử dụng đất của các trường đại học khi thành lập doanh nghiệp; quy định về quyền và nghĩa vụ giữa chủ sở hữu doanh nghiệp và cơ sở giáo dục đại học… Nguyên nhân của những hạn chế này xuất phát từ:

- Các trường đại học trong ĐHQGHN vẫn đang vận hành với cơ cấu tổ chức, phương thức và mô hình quản trị trường đại học để thực hiện mục tiêu chính là đào tạo và NCKH. Phát triển doanh nghiệp KHCN trong trường đại học chỉ là một trong những định hướng phát triển, do vậy, hiện nay việc vận hành của các trường chưa nhằm mục tiêu thúc đẩy và tạo dựng một không gian cho việc phát triển các doanh nghiệp.

Hơn nữa, quan điểm ban lãnh đạo ĐHQGHN chưa chú trọng đến doanh nghiệp KHCN trong trường đại học, chưa thực sự ủng hộ đại học theo xu hướng khởi nghiệp, chưa nhận thức đúng về vai trò của doanh nghiệp KHCN trong trường đại học.

- Cơ chế quản lý và các thủ tục hành chính vẫn đang hạn chế sự thành lập và phát triển của các doanh nghiệp trong trường đại học. Lãnh đạo các trường đại học thường mong muốn “kiểm soát” và chỉ đạo các doanh nghiệp thuộc trường theo mô hình quản lý hành chính như đối với các khoa, viện, trung tâm trực thuộc. Thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, quy trình để thành lập doanh nghiệp vẫn còn quá nhiều bước. Trong khi đó lại thiếu sự đồng bộ, nhất quán trong hệ thống pháp luật và còn nhiều vướng mắc đối với các quy trình đăng ký bản quyền và cấp phép chuyển giao công nghệ.

- Ngân sách chi cho NCKH của các trường đại học mặc dù tăng đều qua các năm và chiếm tỷ trọng lớn, tuy nhiên, phần ngân sách này phải phục vụ cho nhiều hạng mục, như: NCKH, đề tài cấp cơ sở, trung tâm nghiên cứu, phòng thí nghiệm... Do vậy, phần ngân sách để phục vụ cho việc thành lập doanh nghiệp không còn nhiều.

KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP

Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất các kiến nghị và giải pháp nhằm điều chỉnh và bổ sung các chính sách để phát triển mô hình doanh nghiệp KHCN trong ĐHQGHN nói chung và các trường đại học nói riêng, cụ thể như sau:

Cần xây dựng quy định về hình thức, nội dung, cơ chế hợp tác và đãi ngộ để khuyến khích nhà khoa học tích cực hợp tác với doanh nghiệp song song với việc đăng ký, xác lập và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp.

Thứ nhất, xây dựng chính sách sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm hoặc tri thức được thương mại hóa. Điều này đảm bảo rằng, các doanh nghiệp không trục lợi từ tri thức thuộc các trường đại học, tuy nhiên vẫn đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp hưởng lợi ích từ việc thương mại hóa các tri thức hoặc sản phẩm. Chính sách sở hữu trí tuệ cần làm rõ các đối tượng liên quan, quyền và trách nhiệm của mỗi bên khi chuyển giao, hoặc sử dụng các sản phẩm, hoặc tri thức đã bảo hộ sở hữu trí tuệ. Trong chính sách, cần làm rõ cơ chế chuyển giao tri thức và cơ chế quản lý của đơn vị chủ quản đối với tri thức được bảo hộ.

Thứ hai, kết hợp hài hòa các lợi ích và trách nhiệm giữa nhà trường và các đơn vị nghiên cứu/dịch vụ trực thuộc theo hướng: nhà trường ưu tiên nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, chia sẻ nguồn lực và tư vấn về các vấn đề của đơn vị; ngược lại, các đơn vị cần xây dựng chiến lược phát triển gắn với chiến lược NCKH của nhà trường, chủ động tiếp nhận kết quả để thương mại hóa, phát triển sản phẩm, đồng thời làm tốt vai trò là nhà cung cấp thông tin, phản biện để các khoa, các nhà khoa học trong trường nắm được nhu cầu của thị trường.

Thứ ba, xây dựng các chính sách, cơ chế và các quy định về hình thức, nội dung, cơ chế hợp tác và đãi ngộ để khuyến khích nhà khoa học tích cực hợp tác với doanh nghiệp song song với việc đăng ký, xác lập và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp.

Thứ tư, cần có chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, xúc tiến thành lập doanh nghiệp để thu hút tiềm năng của các cá nhân, bộ phận trong nhà trường khai thác kết quả nghiên cứu, ý tưởng kinh doanh, hợp tác, liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp có uy tín. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp đối tác, tích cực tiếp cận nguồn vốn tài trợ và đầu tư nghiên cứu, sản xuất thử.

Thứ năm, chủ động mời các nhà quản lý, nhà quản trị giỏi tham gia vào hoạt động đào tạo, nghiên cứu và làm việc tại các doanh nghiệp/đơn vị kinh doanh của nhà trường. Đồng thời, quan tâm lựa chọn và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có tinh thần doanh thương, có khát vọng kinh doanh để tham gia các chương trình, dự án khởi nghiệp và phát triển ý tưởng thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu KHCN tại các đơn vị này.

Thứ sáu, chuyển đổi mô hình tổ chức và quản trị để đảm bảo tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đại học. Quyền tự chủ ở trường đại học thể hiện ở việc tự chủ về tài chính, tự chủ về tổ chức nhân sự, tự chủ trong các hoạt động đào tạo, NCKH và đặc biệt là tự chủ về mặt học thuật trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Mô hình quản trị đại học cần được thay đổi trên cơ sở trao cho các trường được quyền tự chủ và đòi hỏi các trường phải chịu trách nhiệm xã hội đối với mọi hoạt động và “sản phẩm” của mình. Trong các quyền và nội dung của tự chủ, việc đảm bảo tự do học thuật trong học tập và nghiên cứu là quan trọng nhất, vì nó là điều kiện tiên quyết để một đại học thực hiện được sứ mệnh thứ nhất và thứ hai là: sáng tạo, đổi mới và truyền bá tri thức. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến vai trò của hội đồng trường.

Thứ bảy, thành lập trung tâm chuyển giao công nghệ và tri thức trên cơ sở trao quyền tự chủ và chịu trách nhiệm. Tổ chức bộ máy độc lập, có cơ chế vận hành gắn với tự chủ và trách nhiệm. Cử người đại diện cơ quan chủ quản tham gia quản lý trung tâm, tuy nhiên hoạt động giống như các thành viên trung tâm khác. Ngân sách hoạt động của trung tâm gắn liền với cơ chế tự thu chi và gắn trách nhiệm của người đứng đầu trung tâm.

Thứ tám, tổ chức tốt hoạt động tuyên truyền, truyền thông và đào tạo về doanh nghiệp, doanh nhân; thúc đẩy tinh thần doanh nhân trong nhà trường. Cần đa dạng hóa, hiện đại hóa các mô hình đào tạo doanh nhân; liên kết mạng lưới cựu người học thành đạt và các thế hệ doanh nhân tài năng để kết nối tạo cơ hội được giao lưu, tích lũy kinh nghiệm và kiến thức thực tế về kinh doanh và truyền cảm hứng cho giảng viên và sinh viên.

Thứ chín, linh hoạt trong hình thành và tổ chức hoạt động doanh nghiệp trong các trường đại học. Để các doanh nghiệp hay đơn vị kinh doanh này hoạt động có hiệu quả, phát huy được thế mạnh của nhà trường và các nhà khoa học, các trường đại học cần thay đổi cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành phù hợp với các hoạt động doanh nghiệp.

Về cơ cấu tổ chức, cần phù hợp với bối cảnh mới và theo định hướng phát triển của mô hình đại học doanh nghiệp. Theo đó, cơ cấu tổ chức các đơn vị phục vụ, dịch vụ phải linh hoạt, tinh gọn, hiệu quả và quan tâm nhiều hơn đến chất lượng phục vụ các bên liên quan, trong đó có các doanh nghiệp và đơn vị kinh doanh; phân định rõ trách nhiệm các bộ phận chức năng; phân cấp mạnh cho các doanh ngiệp, đơn vị kinh doanh về tổ chức bộ máy và tài chính; đồng thời phân cấp quản lý để phát huy tự chủ về học thuật cho các khoa, bộ môn.

Về quản lý, điều hành, tùy theo mô hình tổ chức của doanh nghiệp hay đơn vị kinh doanh và tình hình thực tiễn của các trường đại học, mà các nhà quản lý trường đại học cần lựa chọn cơ chế quản lý, điều hành phù hợp. Nhưng nguyên tắc quan trọng nhất trong điều hành nhà trường là: đảm bảo để các doanh nghiệp hoạt động theo đúng Luật Doanh nghiệp, tuân theo các thông lệ tốt của quản trị công ty; loại bỏ các thủ tục không cần thiết (mang tính hình thức nhưng không thực chất) trong quản lý hành chính đối với các đơn vị; tôn trọng tính tự chủ cao, chịu trách nhiệm trước pháp luật của doanh nghiệp và của người quản lý doanh nghiệp; không can thiệp vào hoạt động quản trị, điều hành linh hoạt của doanh nghiệp và đơn vị; đảm bảo phát huy dân chủ và tính tự do học thuật cho các nhà khoa học tham gia vào hoạt động của đơn vị với tư cách cộng tác viên./.

Tài liệu tham khảo

1. Đảng bộ ĐHQGHN (2020). Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng bộ ĐHQGHN lần thứ VI nhiệm kỳ 2020-2025

2. Đinh Văn Toàn (2019). Phát triển doanh nghiệp trong các cơ sở giáo dục đại học: Từ kinh nghiệm quốc tế đến thực tiễn Việt Nam (sách chuyên khảo), Nxb ĐHQGHN

3. Mai Hoàng Anh (2020). Kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong trường đại học, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, 28(746), 66-69

Đinh Văn Toàn

Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội

(Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 8, tháng 3/2021)