Tóm tắt

Nghiên cứu này đánh giá các khía cạnh liên quan đến việc phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong cụm công nghiệp (CCN) tại Lào. Các CCN hiện đang phát triển ở Lào, tuy nhiên chỉ có một số ít khu công nghiệp đang hoạt động trong số 11 SEZ (đặc khu kinh tế và khu kinh tế đặc thù). Khôi phục các khu công nghiệp của Lào đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển thành các CCN. Vì vậy, nghiên cứu tiến hành phỏng vấn 4 đối tượng đang làm việc trong các tổ chức khác nhau tại các CCN ở Lào. Thông qua quá trình phỏng vấn, tác giả xây dựng các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của CCN tại Lào trong giai đoạn tiếp theo.

Từ khóa: cụm công nghiệp, quản lý cụm công nghiệp, Lào, doanh nghiệp nhỏ và vừa

GIỚI THIỆU

Hoạt động của CCN đóng một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi kinh tế dài hạn bằng cách thúc đẩy sự phát triển đổi mới, khả năng cạnh tranh và tinh thần kinh doanh ở cấp độ vi mô, trung bình và vĩ mô. Điều kiện thuận lợi để phát triển kinh doanh, đặc biệt đối với các DNNVV; được cung cấp bởi hệ sinh thái khởi nghiệp của các cụm được hình thành nhờ sự tích tụ các giá trị bao gồm kiến thức, sự hợp tác của những người tham gia phát triển khuôn khổ đổi mới khu vực, sự hợp tác, phong tục kinh tế - xã hội của khu vực và các nguồn lực xã hội (Jia và cộng sự, 2015). Một phần lớn các DNNVV không thể giải quyết được những khó khăn do môi trường phức tạp và đầy biến động hiện nay gây ra, cũng như một số rào cản phát triển đang tồn tại (định hướng thị trường, xã hội, tài chính, kỹ thuật...). Một số yếu tố như: toàn cầu hóa, sự cạnh tranh công nghiệp đang diễn ra trong lĩnh vực đổi mới và tiến bộ công nghệ, sự hiểu biết và thông số kỹ thuật ngày càng tăng của người tiêu dùng, cũng như các rào cản phát triển địa phương, ảnh hưởng đến quyết định của các DNNVV trong việc tăng cường hợp tác trong khuôn khổ các CCN (Cheba, 2015).

Bằng cách sử dụng một số ví dụ về phân cụm được chọn ở Lào, nghiên cứu mô tả đặc điểm của các CCN để xác định các phương tiện bên ngoài (ngoại sinh) cho sự tăng trưởng của các DNNVV - phân khúc đa dạng nhất của nền kinh tế về thành phần, phương thức hoạt động, năng lực tăng trưởng và khả năng thích ứng (Bhattacharyya, 2014). Vì vậy, một số vấn đề liên quan đến phát triển CCN ở Lào đã đặt ra những câu hỏi về hiện trạng phát triển, vai trò của các CCN này tới sự phát triển của các doanh nghiệp DNNVV. Kết quả từ nghiên cứu này được kỳ vọng sẽ đưa ra những câu trả lời nhằm thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV trong các CCN tại Lào.

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

Các CCN trước đây từng xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới và gần đây là các CCN hiện đại do các doanh nhân thành lập hoặc bắt đầu là hai loại CCN hiện diện trong hoạt động thương mại ngày nay. Trên toàn cầu, nhiều biến số nội sinh và bên ngoài (ngoại sinh) góp phần hình thành các CCN (Babkin và cộng sự, 2013). Các lý thuyết về địa lý kinh tế, vị trí tài chính, kinh tế vùng, cơ cấu đổi mới quốc gia, lý thuyết chuyển giao kiến thức, lý thuyết ảnh hưởng xã hội và mạng lưới xã hội là một số lợi thế của CCN. Những ưu điểm khác bao gồm những cách tích hợp mới lạ của những ý tưởng này. Cấu trúc là kết quả của sự tích lũy các hoạt động công nghiệp và được tạo ra và duy trì bởi cơ chế phản hồi tích cực (Munnich và cộng sự, 2015). Các tổ chức trung gian, dù được thành lập chính thức hay không chính thức bởi một số doanh nghiệp có mục tiêu và quy định chung, và nằm trong một khu vực địa lý nhất định; loại "tập hợp" địa lý được xác định bởi các mối quan hệ công nghệ và xã hội cụ thể giữa người chơi tư nhân và nhà nước và liên quan đến các doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành hoặc chi nhánh (Karaev và cộng sự, 2007).

Một công cụ quan trọng để hình thành các CCN ở các quốc gia đang phát triển là sự hợp tác giữa các doanh nghiệp. Kongmanila và Takahashi (2009) điều tra mối liên hệ giữa các hình thức hợp tác và hiệu quả kinh doanh khác nhau bằng ví dụ về ngành may mặc của Lào tại Thủ đô Viêng Chăn. Kỹ thuật phân tích nhân tố và phân tích hồi quy bội đã được áp dụng cho dữ liệu khảo sát thực địa để xác thực giả thuyết nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, sự thành công của một công ty bị ảnh hưởng bởi sự hợp tác của nó với những người mua ở xa, tổ chức kinh doanh và nhà thầu phụ. Ngược lại, nghiên cứu này cho thấy, sự hợp tác giữa các công ty kinh doanh quần áo và các nhà cung cấp ở xa ít thành công hơn.

Chính sách tăng trưởng công nghiệp hỗ trợ và chính sách phát triển CCN có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Việc phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ có tầm quan trọng lớn đối với chính phủ các quốc gia được lựa chọn thực hiện nghiên cứu nói trên. Tăng trưởng công nghiệp hỗ trợ luôn được ưu tiên trong quá trình công nghiệp hóa nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển công nghiệp quốc gia vừa thành công vừa bền vững (Păuna, 2015). Do đó, một trong những cách tốt nhất để xây dựng công nghiệp hỗ trợ là thông qua việc thành lập các CCN. Đây cũng là điều mà các quốc gia có hệ thống hỗ trợ công nghiệp tiên tiến đã thực hiện thành công. Vì vậy, nghiên cứu này muốn tập trung vào các thách thức chiến lược khi quản lý các CCN tại Lào khi phát triển các doanh nghiệp DNNVV trong đó.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu sử dụng phương pháp định tính bằng cách phỏng vấn bán cấu trúc vào tháng 9-10/2023 với những người có liên quan để đánh giá những thách thức chiến lược về mặt quản lý khi phát triển các doanh nghiệp DNNVV trong các CCN tại Lào. Tác giả tiếp cận và phỏng vấn 4 đối tượng khác nhau, bao gồm: 2 cá nhân đang làm chủ doanh nghiệp và 2 nhân viên quản lý hành chính chính phủ trong các CCN tại Lào. Những người tham gia vào các cuộc phỏng vấn trong nghiên cứu bao gồm 4 đối tượng sau:

Đối tượng A: Chủ doanh nghiệp dệt may tại CCN Savan-Seno.

Đối tượng B: Chủ doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng tại CCN Boten-Denngam.

Đối tượng C: Quản lý CCN Phukyo.

Đối tượng D: Quản lý CCN Dongphosy.

Trong quá trình phỏng vấn, nếu những người trả lời gặp khó khăn trong việc giải thích về bản thân thì có thể được người phỏng vấn nói chuyện trực tiếp để hiểu sâu hơn về quan điểm của họ. Bảng câu hỏi phỏng vấn sâu bao gồm các câu hỏi mở để cho phép người tham gia thoải mái chia sẻ suy nghĩ và hiểu biết của họ về chủ đề này. Các câu hỏi xoay quanh quan điểm của người tham gia về các vấn đề, thực trạng và giải pháp tiềm năng liên quan đến hoạt động kinh doanh của các DNNVV ở Lào từ các chủ doanh nghiệp và nhân viên chính phủ trong bộ máy quản lý CCN. Bên cạnh đó, các câu hỏi liên quan đến CCN bao gồm đánh giá thực trạng phát triển CCN ở Lào, hoạt động của các DNNVV, định hướng phát triển và các giải pháp đề xuất.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Mục tiêu của nghiên cứu này là mô tả cách các CCN đóng góp vào sự phát triển của các DNNVV ở Lào. Trong nỗ lực thích ứng với bối cảnh đang thay đổi, các doanh nghiệp này phải liên tục tìm kiếm những con đường mới để tăng trưởng, bao gồm cả những nguồn lợi thế cạnh tranh dài hạn mới. Bằng cách tích cực kinh doanh trong các cụm và gắn kết với các đối tác của mình trong cả bối cảnh bên trong và bên ngoài (như tham gia vào mạng lưới ở nước ngoài), các DNNVV có thể tăng cường khả năng cung cấp thị trường, chuyển giao kiến thức chuyên môn, thiết kế và thực hiện các hoạt động vận hành cũng như tạo ra nguồn vốn quan hệ.

Đối tượng C đưa ra quan điểm rằng, các sáng kiến CCN do chính phủ Lào tài trợ đã được triển khai từ năm 2000 đến năm 2015 tại các khu vực gần khu vực đông dân cư; với mục đích thúc đẩy chuyển giao kiến thức và hợp tác kinh tế giữa các DNNVV của Lào trong các lĩnh vực năng lượng sinh thái, thành phố thông minh và kết nối. Mục tiêu của dự án CCN là nâng cao khả năng cạnh tranh, khả năng thích ứng và mức độ quốc tế hóa của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) dựa trên quy trình quản lý của chính phủ liên quan đến phát triển công nghiệp, công nghệ và năng lực sản xuất. Tuy nhiên đối tượng C chia sẻ những thách thức đối với DNNVV tại đây như: “DNNVV có xu hướng sử dụng nhân viên là người thân dù năng lực thấp hơn so với nhân viên không phải họ hàng. Họ có quan điểm kém thuận lợi về tính cạnh tranh, kỷ luật và trách nhiệm. Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ theo định hướng gia đình hiện có và chi tiêu đầu tư thấp. Vì vậy, cần nhiều thời gian tích lũy vốn để kinh doanh bền vững trong việc tạo ra nhu cầu và mở rộng sản xuất.”

Theo đối tượng D, các CCN liên ngành tập hợp hơn 80 tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp, Chính phủ, học thuật và kinh doanh từ các lĩnh vực năng lượng tái tạo, hiệu quả năng lượng và công nghệ mới. Kể từ khi thành lập vào năm 2009, cụm Dongphosy đã tổ chức một số buổi đào tạo, họp mặt theo chủ đề, buổi cung cấp thông tin, chương trình giáo dục và dịch vụ tư vấn. Tuy nhiên, nhiều mục tiêu hoạt động khác của cụm vẫn chưa được đảm bảo thực hiện đầy đủ. Đối tượng D đánh giá rằng: “Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng mạng lưới tiếp thị cần có kinh phí bổ sung. Vì vậy, ngay cả một số loại hình kinh doanh mới cũng phát triển mạnh mẽ và có tiềm năng phát triển do thiếu vốn nên không đủ tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Hầu hết vốn bổ sung có thể được huy động trong thời gian ngắn và quy trình dễ dàng. Với điều kiện này, họ thường cho vay với lãi suất bóp nghẹt hoặc trung gian. Tuy nhiên, chính quyền và ban quản lý CCN chưa xây dựng các cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn kinh doanh hiệu quả”.

Đối tượng C cho rằng, mục tiêu chính của CCN Phukyo là mở rộng mạng lưới các DNNVV ở Lào, cải thiện cơ chế liên lạc và liên lạc vận tải liên ngành, đồng thời xác định các đối tác mới và phân tích kinh nghiệm trong và ngoài nước. Đối tượng C chia sẻ: “Hoạt động sản xuất hàng hóa hợp tác của công ty trong CCN Phukyo, dựa trên các giải pháp sáng tạo và tận dụng hệ thống logistics được hỗ trợ của các tổ chức đối tác trong các đơn vị R&D của Lào, là một trong những hoạt động chính hiện nay của CCN này.”

Các lợi thế dành cho các DNNVV của cụm này là khác nhau: mạng lưới đối tác mạnh mẽ và hùng mạnh; tiếp cận giao thông đầy đủ, kết nối thương mại và tin tức trong ngành; tham gia vào việc phát triển và thực hiện hàng hóa và dịch vụ chung; nâng cao danh tiếng và vị thế thuận lợi của công ty trên thị trường; giới thiệu tiềm năng của nó trên các địa điểm cụm; và sự thể hiện nhất quán bên ngoài về lợi ích của các thành viên trong nhóm. Tuy nhiên, Đối tượng C cũng chỉ ra một số thực trạng và thách thức vẫn còn tồn tại của CCN tác động tới doanh nghiệp: “Nhiều doanh nghiệp còn khó tiếp cận với các tổ chức tín dụng nếu cách xa trung tâm hành chính địa phương; chưa có nhiều các hoạt động thúc đẩy sản xuất hoặc kết nối các doanh nghiệp sản xuất với các khách hàng tiêu dùng lớn”

Theo đối tượng A, quá trình phát triển công nghiệp ở Lào là yêu cầu cấp thiết, và cần nằm dưới sự quản lý tổng thể của Đảng và Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Đối tượng A nêu rõ rằng: “các DNNVV hoạt động trong các CCN có đủ điều kiện nhận các dịch vụ tư vấn tài chính, thông tin, đào tạo và hỗ trợ đổi mới”. Hoạt động kinh doanh của đối tượng A là một phần của CCN Savan-Seno, nơi có mạng lưới giao thông chuyên biệt dành cho các DNNVV ở Lào. Tuy nhiên, đối tượng A đánh giá rằng sự hợp tác giữa các DNNVV vẫn còn rất thấp và thiếu sự tin tưởng lẫn nhau. Thực tế tại Lào thìchưa thành lập được hiệu quả các khu kinh tế, khu công nghiệp, CCN đặc thù. Những tiến bộ nói trên phụ thuộc vào một khuôn khổ hoặc chiến thuật đổi mới được gọi là tăng trưởng CCN. Công ty của đối tượng này phải tiến hành liên kết với nhiều doanh nghiệp Trung Quốc để mua nguyên vật liệu hoặc trang thiết bị đầu vào khi mà việc tiếp các các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế Lào chưa hiệu quả.

Về đối tượng B, thuộc CCN Boten-Denngam – CNN được thành lập năm 2003, được Chính phủ Lào hỗ trợ và được coi là một trong những CCN hàng đầu của cả nước. Đối tượng B chia sẻ nhiều thách thức vẫn còn tại trong cụm công nghiệp này. Nhiều địa điểm kinh doanh nhỏ được hỗ trợ kém với cơ sở hạ tầng đầy đủ. Các vấn đề rõ ràng nằm ngoài khả năng truy cập hệ thống chuỗi cung ứng của doanh nghiệp. Đối tượng B chia sẻ sự mong đợi nhận được sự giúp đỡ của chính phủ trong lĩnh vực này. Các chủ doanh nghiệp nhỏ cũng đang thiếu nỗ lực hợp tác này. Một điểm nghẽn nữa là việc thiếu kiểm soát tính pháp lý trong quan hệ kinh doanh với các bên. Tập quán kinh doanh của các doanh nhân nhỏ trong nước là khá truyền thống, vì thế đôi khi lập trường của họ trong việc hợp tác với các bên khác khi tiến hành kinh doanh là tương đối thận trọng.

Như vậy, 4 yếu tố hiệu quả hoạt động của CCN là; tài chính, cạnh tranh, kinh tế và môi trường, được nêu bởi đối tượng C và D. Thuật ngữ khía cạnh hiệu quả hoạt động tài chính; có 4 thành phần - doanh thu, chi phí, lợi nhuận và đầu tư - đề cập đến tác động của cụm lên các số liệu tài chính của công ty. Hiệu suất của cụm về mặt đổi mới, phát triển thị trường và chất lượng được coi là khía cạnh hiệu suất cạnh tranh của cụm và nó bao gồm ba yếu tố này. Chất lượng sản phẩm phản ánh khả năng cạnh tranh hiện tại của cụm. Sự đổi mới trong các lĩnh vực sản xuất, sản phẩm và quy trình thị trường có thể được tiết lộ. Có thể đánh giá sự gia tăng thị phần ở lĩnh vực hàng hóa mới, cũ, nâng cấp. Thuật ngữ "khía cạnh hiệu quả kinh tế" mô tả cách các CCN ảnh hưởng đến nền kinh tế của khu vực. Trong khi tạo việc làm tại địa phương, chúng cũng có tác động đến nền kinh tế của khu vực bằng cách chuyển đổi nguyên liệu thô thành hàng hóa thúc đẩy giá trị và tạo ra của cải. Những hậu quả tiêu cực mà CCN gây ra đối với môi trường được gọi là thành phần hiệu quả hoạt động môi trường.

Dựa trên quan điểm của các đối tượng tham gia nghiên cứu, các DNVVN nên tận dụng vốn xã hội theo cụm dưới hình thức liên kết giữa các công ty. Chiến lược này sẽ góp phần giúp các DNVVN đạt được hiệu suất tốt hơn. DNVVN cần tăng cường mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong cụm như một phần của chiến lược hợp tác. Những chiến lược này sẽ mang lại giá trị, lợi ích, sự tin tưởng và cam kết lẫn nhau. DNVVN cũng hoạt động tốt hơn khi họ cạnh tranh và hợp tác đồng thời trong môi trường kinh tế thương mại. Cho đến nay, hạn chế quan trọng nhất của DNVVN tại Lào đang hoạt động tại các CCN khác nhau là cải tiến sản phẩm và thị trường tiêu dùng còn hạn chế. Vấn đề này có thể được khắc phục bằng cách đổi mới mô hình kinh doanh hướng đến hoạt động đổi mới, định hướng chiến lược, thị trường và gia tăng đầu tư áp dụng về công nghệ. Việc thiết lập các mối liên kết giữa các doanh nghiệp theo chiều ngang và chiều dọc có thể khắc phục được vấn đề sản xuất và tiếp thị. Vì vậy, đổi mới sáng tạo được coi là chìa khóa thành công để các DNVVN phát triển trong các CCN tại Lào. Sau đó, các CCN nhỏ sẽ tạo điều kiện cho họ hưởng lợi từ việc hình thành các mối liên kết giữa các doanh nghiệp.

KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý

Xây dựng các khu công nghiệp liền kề các cầu sông Mê Kông sẽ giúp ích nhiều nhất cho Lào. Để có được lợi thế cạnh tranh so với các Đặc khu kinh tế Koh Kong và Poipet ở Campuchia, Lào phải nâng cao điều kiện kinh doanh; đặc biệt bằng cách giảm thiểu thời gian đi lại đến Bangkok và cắt giảm chi phí hậu cần thông qua việc kéo dài thời gian làm thủ tục hải quan, đơn giản hóa thủ tục hải quan và triển khai các dịch vụ bốc xếp hỗn hợp. Lào phải nâng cấp hệ thống đường bộ giữa Thakhek và Hà Nội nếu muốn thu được lợi ích lâu dài từ sự tích tụ ở Hà Nội. Các nhà hoạch định chính sách phải tiếp tục đàm phán với các quốc gia tài trợ để đảm bảo nguồn vốn khởi nghiệp cho cơ sở hạ tầng và đảm bảo cơ sở hạ tầng cứng và mềm cơ bản, như: giao thông, điện và văn phòng quản lý, trong suốt giai đoạn đầu phát triển của các khu công nghiệp.

Có thể suy ra rằng, các cụm ngành của Lào vẫn cần cải thiện hoạt động liên kết và điều phối do tầm quan trọng của các DNNVV trong nền kinh tế. Đương nhiên, ngành, hướng phát triển cụm và giai đoạn vòng đời của cụm đều ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của điều phối viên cụm. Vì các DNNVV là nền tảng của phần lớn các CCN của Lào, nên các điều phối viên của CCN phải thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau, bao gồm: liên tục xác định các vấn đề và trở ngại cản trở sự phát triển của các cụm này; kiểm kê tiềm năng chiến lược của họ; và tạo ra một cơ sở dữ liệu chứa các nhu cầu và năng lực hiện tại và tương lai của họ; lồng ghép các yêu cầu và kỳ vọng của họ vào chiến lược phát triển cụm ngành (Kim và cộng sự, 2022); khuyến khích hợp tác với các tổ chức nghiên cứu và phát triển; tham gia vào các dự án cụm, đồng sáng tạo cơ sở hạ tầng và các dự án cụm R&D, đồng thời cung cấp các nguồn tài trợ tương đối ổn định; tạo điều kiện tiếp cận các công nghệ mới, kiến thức chuyên ngành và các nguồn lực khác có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của họ; hỗ trợ quá trình quốc tế hóa và hội nhập với chuỗi giá trị toàn cầu; nâng cao nguồn nhân lực thông qua các chương trình đào tạo khác nhau dành cho nhân viên của các thành viên cụm nhằm thúc đẩy mối quan hệ giữa các cá nhân (Palčič, 2013)./.

Tài liệu tham khảo

1. Babkin A.V., Kudryavtseva T.J., Utkina S.A., (2013), Identification and analysis of industrial cluster structure, World Applied Sciences Journal, 28(10), 1408-1413.

2. Bhattacharyya D., (2014), Cottage industry clusters in India in improving rural livelihood: an overview, International Journal of Humanities & Social Science Studies, 1(1), 59-64.

3. Cheba, K. (2015), The influence of clusters on economic development: A comparative analysis of cluster policy in the European Union and Japan, Quarterly Journal Oeconomia Copernicana, 6(3), 73-88.

4. Jia X., Jiang M., Ma T., (2015), The dynamic impact of industrial cluster life cycle on regional innovation capacity, Economic Research, 28(1), 807-829.

5. Karaev A., Koh S.C., Szamosi L.T., (2007), The cluster approach and SME competitiveness: a review, Journal of Manufacturing Technology Management, 18(7), 818-835.

6. Kim, D., Kim, S., Lee, J. S. (2023), The rise and fall of industrial clusters: experience from the resilient transformation in South Korea, The Annals of Regional Science, 71(2), 391-413.

7. Kongmanila, X., Takahashi, Y. (2009), Inter-firm cooperation and firm performance: An empirical study of the Lao garment industry cluster, International Journal of Business and Management, 4(5), 3-17.

8. Munnich, L., Iacono Jr, M., Dworin, J. (2015), Transportation Planning to Support Economic Development: An Exploratory Study of Competitive Industry Clusters and Transportation in Minnesota, Research Project, Humphrey School of Public Affairs, University of Minnesota.

9. Palčič, I. (2013), Industrial clusters development and organisation model, Anali PAZU, 3(1), 26-33.

10. Păuna, C. B. (2015), Cross-sectoral cooperation vs. cluster development at European level, Procedia Economics and Finance, 22, 175-183.

11. Tambunan T., (2005), Promoting small and medium enterprises with a clustering approach: a policy experience from Indonesia, Journal of Small Business Management, 43(2), 138-154.

12. Yuxiang Z, Xilai Z., Chun L., Feng Y., Hongyu W., (2011), The development strategy for industrial clusters in Qingdao, Energy Procedia, 5, 1355-1359.

NCS. Sonepaseuth Dalavong

Trường Đại học Ngoại thương

Ngày nhận bài: 01/10/2023; Ngày phản biện: 24/1/2023; Ngày duyệt đăng: 15/11/2023