Phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội: Một số vấn đề đặt ra và đề xuất giải pháp
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI
Qua 35 năm Đổi mới, quan điểm về tăng trưởng kinh tế gắn kết với việc đẩy nhanh tiến bộ và thực hiện công bằng xã hội, phát triển bền vững được Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển, không ngừng bổ sung và hoàn thiện qua các kỳ đại hội của Đảng.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực |
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển... |
Ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III (năm 1960) và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (năm 1976), Đảng ta đã đặt mục tiêu "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa hội". Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đưa ra quan điểm "ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình vận động tiến lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định được" và đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000 đã xác định: "Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững”, "Tăng trưởng kinh tế, gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường".
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) nhấn mạnh: "Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) tiếp tục khẳng định quan điểm: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường".
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) chỉ rõ phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững và phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, đồng thời rút ra bài học: "…Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi trường".
Năm 2016, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã có bước phát triển mới về nhận thức với sự khẳng định: "Phát triển nhanh và bền vững (hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hợp quốc); giải quyết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường".
Trong điều kiện mới, dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển nhanh, mạnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ những nội dung mới: "…Phát huy tối đa lợi thế của các vùng, miền; phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính sách, người có công, người nghèo, người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số".
Như vậy, qua các kỳ đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển, xác định một trong những mối quan hệ lớn cần tiếp tục quán triệt và xử lý tốt là quan hệ giữa "tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội".
NHỮNG THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, Việt Nam đã ghi nhiều dấu ấn trong giai đoạn 2016-2020. Theo đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016-2019 đạt khá cao, bình quân 6,8%/năm (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021).
Năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới với GDP đạt 2,91%.
Sang năm 2021, trong bối cảnh dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là trong quý III/2021 nhiều địa phương kinh tế trọng điểm phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài, GDP năm 2021 ước tính tăng 2,58% so với cùng kỳ năm trước là một thành công lớn của nước ta trong việc phòng chống dịch bệnh, duy trì sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của Việt Nam năm 2021 tăng trưởng ngoạn mục, đạt kỷ lục 668,5 tỷ USD, trở thành điểm sáng của nền kinh tế, đưa nước ta vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế (Tổng cục Thống kê, 2020-2021a).
Bên cạnh những thành tựu đạt được về phát triển kinh tế, thì những chỉ số thể hiện sự công bằng xã hội cũng được thể hiện rất rõ như sau:
- Chính sách giải quyết việc làm, tăng thu nhập và giảm nghèo đạt được nhiều thành quả tích cực, đã góp phần quan trọng bảo đảm tỷ lệ cao dân số từ 15 tuổi trở lên có việc làm (trên 77%) và giảm nghèo bền vững. Trong 10 năm qua (2011-2020), nước ta luôn duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp (2%-3%) và thuộc nhóm các quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới. Thu nhập bình quân của người lao động được cải thiện, tăng bình quân 8,7%/năm trong giai đoạn 2013-2018. Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều) của cả nước giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống còn 2,75% vào cuối năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vùng dân tộc và miền núi giảm khoảng 3%-4%/năm. Tỷ lệ hộ nghèo người dân tộc thiểu số giảm bình quân 4%/năm (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021).
- Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đã mở rộng cơ hội tham gia, thụ hưởng của người dân, thu hút người lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng nhanh, đặc biệt bảo hiểm y tế cả nước có 87,96 triệu người tham gia, chiếm 90,85% dân số vào năm 2020, cơ bản bao phủ toàn dân (Nhóm PV, 2021).
- Công tác trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, từng bước chuyển sang hướng tiếp cận dựa trên quyền con người, lấy con người là trung tâm góp phần ổn định cuộc sống cho các đối tượng yếu thế. Ví dụ, những chính sách trợ giúp xã hội đột xuất hỗ trợ kịp thời người dân bị rủi ro do thiên tai bão lụt, hạn hán, rét đậm, rét hại, cứu đói giáp hạt và nhân dịp Tết Nguyên đán hằng năm... Đặc biệt, trước những khó khăn do đại dịch Covid-19 gây ra, theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tính đến ngày 15/12/2021 tổng kinh phí từ nguồn ngân sách trung ương đã hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP, ngày 01/7/2021; Nghị quyết số 86/NQ-CP, ngày 06/8/2021 và Nghị quyết số 126/NQ-CP, ngày 08/10/2021 của Chính phủ; Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg, ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ là gần 31,4 nghìn tỷ đồng cho 28,8 triệu lượt người và 337,9 nghìn đơn vị sử dụng lao động/hộ kinh doanh. Bên cạnh đó, theo Nghị quyết số 116/NQ-CP, ngày 24/9/2021 của Chính phủ đã hỗ trợ 37,5 nghìn tỷ đồng cho gần 22,3 triệu lượt người và 363,6 nghìn đơn vị sử dụng lao động/hộ kinh doanh. Tính đến ngày 23/12/2021 đã hỗ trợ gần 149,1 nghìn tấn gạo cho 2,5 triệu lượt hộ với gần 9,9 triệu lượt nhân khẩu thiếu đói do giáp hạt, ảnh hưởng dịch bệnh và thiên tai (Tổng cục Thống kê, 2021a). Những trợ giúp đó không chỉ tạo điều kiện cho những hoàn cảnh khó khăn vượt qua đại dịch Covid-19, mà còn tạo nên sự công bằng tương đối trong cộng đồng lúc hoạn nạn, thể hiện tính tương thân của dân tộc, tính ưu việt của chế độ.
- Hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu được chú trọng đầu tư, phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và thụ hưởng, được thể hiện trong việc phổ cập giáo dục; chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn; xây dựng hệ thống y tế cơ sở và y tế dự phòng, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chương trình nhà ở cho các nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, cho công nhân khu công nghiệp; mạng lưới cấp nước sạch nông thôn; hệ thống thông tin truyền thông cơ sở… được triển khai hiệu quả.
- Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Theo đó, chỉ số Phát triển con người (HDI) của Việt Nam tiếp tục cải thiện trong giai đoạn 2016-2020. Cụ thể, HDI năm 2016 đạt mức 0,682 và tăng lên 0,706 năm 2020 tức là từ nhóm trung bình lên nhóm có HDI cao của thế giới. Các chỉ số thành phần cũng có bước cải thiện đáng kể, đơn cử như chỉ số sức khỏe tăng từ 0,822 năm 2016 lên 0,826 năm 2020. Chỉ số giáo dục tăng tương ứng từ 0,618 lên 0,640 và chỉ số thu nhập tăng tương ứng từ 0,624 lên 0,664 (Thúy Hiền, 2021).
Mới đây, theo tổ chức nghiên cứu kinh tế - xã hội New Economics Foundation (NEF) có trụ sở chính tại Vương quốc Anh, Việt Nam là quốc gia có chỉ số Hành tinh hạnh phúc (HPI) đứng thứ 5 thế giới và đứng đầu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Với chỉ số HPI là 40,3 và tuổi thọ trung bình 75,5, Việt Nam là nước châu Á duy nhất nằm trong 10 nước đầu bảng được khảo sát (Nguyễn Hoàng Mộng Nam, 2021).
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Mặc dù đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên, phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội và phát triển bền vững vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế, như:
Một là, GDP bình quân đầu người còn thấp. Trong ấn phẩm “Động thái và thực trạng kinh tế – xã hội Việt Nam 5 năm 2016-2020” của Tổng cục Thống kê (2021), GDP bình quân đầu người của Việt Nam theo giá hiện hành tuy có tăng qua các năm, nhưng vẫn không đạt so với mục tiêu 3.200-3.500 USD đặt ra vào năm 2020. GDP bình quân đầu người năm 2020 ước đạt 2.750 USD, tăng gần 35,6 USD so với năm 2019, thấp hơn mức tăng của năm 2019 (tăng khoảng 144 USD). Hiện nay, Việt Nam tiếp tục thuộc nhóm nước có thu nhập trung bình thấp, năm 2019 GDP bình quân đầu người xếp thứ 120/187 quốc gia và vùng lãnh thổ, chỉ ngang bằng mức GDP bình quân đầu người của Malaysia năm 1993; Thái Lan năm 2003; Indonesia năm 2010; Trung Quốc năm 2009 và Hàn Quốc thập niên 90 của thế kỷ trước.
Hai là, năng suất lao động chưa cao. Theo ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năng suất lao động của Việt Nam năm 2020 vẫn thấp hơn 7 lần so với Malaysia; 4 lần so với Trung Quốc; 3 lần so với Thái Lan; 2 lần so với Philippines và 26 lần so với Singapore. Báo cáo năm 2020 của Tổ chức Năng suất châu Á (APO) cũng cho thấy, năng suất lao động của Việt Nam tụt hậu 60 năm so với Nhật Bản, 40 năm so với Malaysia và 10 năm so với Thái Lan (Nguyễn Quỳnh, 2021).
Ba là, khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư có xu hướng gia tăng. Trong giai đoạn 2010-2020, chênh lệch giàu nghèo nhìn rõ hơn trên góc độ chênh lệch về giá trị tuyệt đối giữa các nhóm thu nhập, năm 2010 chênh lệch giữa nhóm thu nhập thấp nhất (nhóm 1) và thu nhập cao nhất (nhóm 5) là 3 triệu đồng; đến năm 2019, chênh lệch này tăng lên gấp 3 lần năm 2010 là 9,1 triệu đồng; năm 2020, mức chênh lệch này tuy có giảm, nhưng khoảng cách vẫn lớn ở mức gần 8,1 triệu đồng (Tổng cục Thống kê, 2021c).
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
Để tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội và phát triển bền vững, theo tác giả, cần lưu ý một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền về phát triển kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong điều kiện mới. Xác định tiến bộ và công bằng xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với phát triển kinh tế, kinh tế chỉ phát triển nhanh và bền vững khi coi trọng phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và đặt con người là trung tâm của sự phát triển.
Tiến bộ và công bằng xã hội cần được tập trung trong phát triển văn hóa, con người. Do đó, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, con người Việt Nam phát triển toàn diện. Xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức lành mạnh; ngăn chặn sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức; xây dựng các cơ chế, chính sách để gắn kết chặt chẽ xây dựng văn hóa với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng về phát triển kinh tế, văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thành các chính sách, pháp luật của Nhà nước, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị với phát triển văn hóa; khắc phục tình trạng chạy theo lợi ích kinh tế, không quan tâm đúng mức các giá trị văn hóa. Thực hiện tốt quan điểm kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Mỗi chính sách phát triển kinh tế phải hướng tới phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Quản lý phát triển xã hội phải tập trung vào việc xây dựng mô hình phát triển xã hội hợp lý, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
Thứ ba, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan cần nghiên cứu toàn diện các mô hình tăng trưởng kinh tế hiệu quả phù hợp với điều kiện hiện nay, có thể nghiên cứu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng chuyển nền kinh tế phát triển theo chiều rộng sang chiều sâu. Cần đổi mới quy hoạch phát triển ngành, nghề trọng điểm, tập trung phát triển các ngành có sản phẩm giá trị cao, tăng cường đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật hiện đại, nghiên cứu triển khai áp dụng mạnh mẽ mô hình tăng trưởng xanh, thực tế đây là mô hình mà các quốc gia phát triển đã áp dụng. Kết hợp tối đa các nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Nhà nước cần tăng cường công tác quy hoạch sử dụng và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia một cách tối ưu nhất, nghiên cứu đổi mới tạo môi trường, thể chế sản xuất, kinh doanh đồng bộ, lành mạnh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng thuận lợi thông thoáng, công khai, minh bạch để thu hút đầu tư định hướng tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Chính phủ trở thành nền hành chính phục vụ các doanh nghiệp và đối tác đầu tư các cơ quan hữu quan cần tạo ra một môi trường mà ở đó chủ thể trong nền kinh tế cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng, phải lấy thị trường làm căn cứ để phân bổ nguồn lực vốn có hiệu quả, đảm bảo cho mọi chủ thể có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận các điều kiện, nguồn lực và tư cách pháp lý phải tạo lập được môi trường cạnh tranh bình đẳng công bằng về cơ hội cho mọi chủ thể trong nền kinh tế.
Thứ năm, tăng trưởng kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường và đảm bảo công bằng xã hội kết hợp theo hướng mỗi chính sách phải gắn với mục tiêu phát triển bền vững, công bằng xã hội, mỗi chính sách ban hành phải dựa trên những cơ sở pháp lý và khoa học có tính đến các yếu tố văn hóa và truyền thống và thực hiện được mục tiêu phát triển bền vững không đánh đổi tăng trưởng lấy tác động tiêu cực đến xã hội và cuộc sống của người dân.
Thứ sáu, tăng trưởng kinh tế phải gắn với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố cốt lõi để tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các giai đoạn tiếp theo của mỗi quốc gia việc tái tạo sức lao động và nâng cao chất lượng nhân lực là vấn đề cấp thiết mỗi quốc gia đều phải tiến hành. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững thì cần thiết phải vào cuộc của mỗi bộ, ban, ngành nhìn chung cần tiến hành từ thay đổi nhận thức đến thực hiện các giải pháp cụ thể và tập trung vào việc đổi mới triết lý, nhận thức của hệ thống giáo dục đào tạo, cập nhật đổi mới nội dung giáo dục đào tạo theo yêu cầu của tình hình sử dụng lao động trong nước và hội nhập, tiêu chuẩn hóa các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng kỹ năng với những tiêu chí chất lượng phù hợp, đào tạo người lao động có khả năng thích ứng tốt với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ bảy, xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức lành mạnh; ngăn chặn sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức; xây dựng các cơ chế, chính sách để gắn kết chặt chẽ xây dựng văn hóa và phát triển con người; phát triển văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội; phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; phát huy vai trò của thông tin truyền thông; phát triển, hoàn thiện, sử dụng hiệu quả các thiết chế văn hóa; thu hẹp khoảng cách chênh lệch về hạ tầng văn hóa giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa; giảm sự chênh lệch về mức hưởng thụ văn hóa giữa các giai tầng, các nhóm xã hội./.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật
2. Tổng cục Thống kê (2020). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2020
3. Tổng cục Thống kê (2021a). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2021
4. Tổng cục Thống kê (2021b). Động thái và thực trạng kinh tế – xã hội Việt Nam 5 năm 2016-2020, Nxb Thống kê
5. Tổng cục Thống kê (2021c). Tác động của đô thị hóa đến chênh lệch giàu nghèo ở Việt Nam, truy cập từ https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/06/xu-huong-bat-binh-dang-trong-phan-phoi-thu-nhap-o-viet-nam-giai-doan-2016-2020/
6. Tổng cục Thống kê (2021d). Kinh tế Việt Nam năm 2020 – một năm tăng trưởng đầy bản lĩnh, truy cập từ https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/01/kinh-te-viet-nam-2020-mot-nam-tang-truong-day-ban-linh/
7. Thúy Hiền (2021). Chỉ số phát triển con người của Việt Nam tiếp tục cải thiện, truy cập từ https://baotintuc.vn/xa-hoi/chi-so-phat-trien-con-nguoi-cua-viet-nam-tiep-tuc-cai-thien-20220106154120893.htm
8. Nguyễn Hoàng Mộng Nam (2021). Việt Nam là quốc gia có chỉ số hạnh phúc đứng đầu Châu Á, truy cập từ https://vietnamhoinhap.vn/article/viet-nam-la-quoc-gia-co-chi-so-hanh-phuc-dung-dau-chau-a---n-36648
9. Nhóm PV (2021). Hết năm 2020, có 87,96 triệu người tham gia BHYT, bao phủ 90,85% dân số, truy cập từ https://suckhoedoisong.vn/het-nam-2020-co-8796-trieu-nguoi-tham-gia-bhyt-bao-phu-9085-dan-so-16921102214583546.htm
10. Nguyễn Quỳnh (2021). Chậm cải tiến năng suất lao động khó đạt mục tiêu tăng trưởng, truy cập từ https://vov.vn/kinh-te/cham-cai-tien-nang-suat-lao-dong-kho-dat-muc-tieu-tang-truong-854144.vov
Lê Văn Thơi
Trường Đại học Thủy lợi
(Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 2, năm 2022)
Bình luận