Quý I/2018: Việt Nam xuất siêu 1,3 tỷ USD
EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 03 ước tính đạt 19,80 tỷ USD, tăng 38,2% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 5,36 tỷ USD, tăng 43,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 14,44 tỷ USD, tăng 36,4%.
Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều có kim ngạch tăng so với tháng trước, trong đó một số mặt hàng tăng cao như: Cao su tăng 81%; gỗ và các sản phẩm gỗ tăng 60,1%; gạo tăng 53,9%; thủy sản tăng 48,1%; điện thoại các loại và linh kiện tăng 47,1%; dệt may tăng 35%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 32,3%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 28%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 03 năm nay tăng 15,4%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 9,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 17,9%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện tăng 62,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 21,7%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 19,6%.
Tính chung quý I năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 54,31 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 14,97 tỷ USD, tăng 18,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 39,34 tỷ USD, tăng 23,2%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2017.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực quý I năm nay vẫn duy trì tốc độ tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 12,3 tỷ USD, tăng 58,8%; hàng dệt may đạt 6,3 tỷ USD, tăng 12,9%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 6,3 tỷ USD, tăng 13,2%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 3,5 tỷ USD, tăng 22,3%; giày dép đạt 3,5 tỷ USD, tăng 10,9%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,1 tỷ USD, tăng 20,1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,9 tỷ USD, tăng 8%; thủy sản đạt 1,7 tỷ USD, tăng 11,2%; rau quả đạt 950 triệu USD, tăng 35,6%; sắt thép đạt 949 triệu USD, tăng 43,3%.
Kim ngạch xuất khẩu tháng 3 tăng 15,4% so với cùng kỳ
Một số mặt hàng kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước: Dầu thô đạt 509 triệu USD, giảm 21,1% (lượng giảm 36,5%); cao su đạt 408 triệu USD, giảm 19,8% (lượng tăng 10,5%); sắn và sản phẩm của sắn đạt 277 triệu USD, giảm 5,3% (lượng giảm 27,7%); hạt tiêu đạt 190 triệu USD, giảm 41,3% (lượng giảm 2%). Tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực vẫn thuộc về khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chiếm 99,7% kim ngạch hàng điện thoại và linh kiện; chiếm 90% kim ngạch máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng; chiếm 61% kim ngạch hàng dệt may.
Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu quý I năm nay, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 28 tỷ USD, tăng 31,8% so với cùng kỳ năm trước; chiếm 51,6% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (tăng 3,9 điểm phần trăm so với cùng kỳ 2017), trong đó mặt hàng điện thoại và linh kiện đạt 12,3 tỷ USD, tăng mạnh tới 58,8% và chiếm 22,7%. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đạt 19,8 tỷ USD, tăng 14,6%; chiếm 36,4% (giảm 2,4 điểm phần trăm).
Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 4,8 tỷ USD, tăng 7,8%; chiếm 8,9% (giảm 1,2 điểm phần trăm). Nhóm hàng thủy sản ước tính đạt 1,7 tỷ USD, tăng 11,2% và chiếm 3,1% (giảm 0,3 điểm phần trăm).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu quý I/2018, EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu đạt 9,8 tỷ USD, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 33,6%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 13,9%.
Tiếp đến là Hoa Kỳ đạt 9,6 tỷ USD, tăng 11,6%, trong đó giày dép tăng 19,3%; dệt may tăng 15,4%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 9,5%.
Trung Quốc đạt 9 tỷ USD, tăng 46%, trong đó điện thoại các loại và linh kiện tăng 674,4%; hàng rau quả tăng 56%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 31,7%. ASEAN đạt 5,6 tỷ USD, tăng 13,5%, trong đó sắt thép tăng 41,6%; điện thoại và linh kiện tăng 16,8%.
Hàn Quốc đạt 4,3 tỷ USD, tăng 35,8%, trong đó điện thoại các loại và linh kiện tăng 63,5%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 59,4%; hàng dệt may tăng 12,2%. Nhật Bản đạt 4,2 tỷ USD, tăng 12%, trong đó hàng dệt may tăng 18,8%; phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 13,9%.
Hàng tư liệu sản xuất chiếm 91,6% tổng kim ngạch nhập khẩu
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 03 năm nay ước tính đạt 19,0 tỷ USD, tăng 35,4% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,5 tỷ USD, tăng 35,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 11,5 tỷ USD, tăng 35,2%. Kim ngạch nhập khẩu hầu hết các mặt hàng đều tăng so với tháng trước, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 43,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 26,8%; điện tử máy tính và linh kiện tăng 18,7%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Ba tăng 3,1%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 3,2%. Nhiều mặt hàng phục vụ sản xuất, gia công lắp ráp trong nước có kim ngạch tăng so với cùng kỳ năm trước: Kim loại thường khác tăng 26,4%; chất dẻo tăng 18,6%; điện tử máy tính và linh kiện tăng 13,8%.
Tính chung 3 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính đạt 53,01 tỷ USD, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 21,26 tỷ USD, tăng 13,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 31,75 tỷ USD, tăng 13,7%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu quý I/2018 tăng 12,8% so với cùng kỳ năm 2017.
Trong quý I năm nay, một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 10,3 tỷ USD, tăng 30,2%; điện thoại và linh kiện đạt 3,4 tỷ USD, tăng 17,2%; xăng dầu đạt 2,2 tỷ USD, tăng 37,1% (lượng tăng 20,1%); chất dẻo đạt 2,1 tỷ USD, tăng 21,5% (lượng tăng 13,8%); kim loại thường khác đạt 1,5 tỷ USD, tăng 19,9%; sản phẩm chất dẻo đạt 1,4 tỷ USD, tăng 15,3%; sản phẩm hóa chất đạt 1,2 tỷ USD, tăng 15,9%; hóa chất đạt 1,2 tỷ USD, tăng 22,9%.
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu quý I, nhóm hàng tư liệu sản xuất ước tính đạt 48,6 tỷ USD, tăng 14,1% và chiếm 91,6% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu (tăng 0,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2017), trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 22,9 tỷ USD, tăng 13,1% và chiếm 43,1% (giảm 0,2 điểm phần trăm); nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu đạt 25,7 tỷ USD, tăng 15% và chiếm 48,5% (tăng 0,6 điểm phần trăm). Nhóm hàng tiêu dùng ước tính đạt 4,4 tỷ USD, tăng 8,5% và chiếm 8,4% (giảm 0,4 điểm phần trăm).
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu quý I/2018, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 14,3 tỷ USD, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng phục vụ sản xuất, gia công lắp ráp tăng: Điện thoại và linh kiện tăng 30%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 6,8%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 5,6%.
Tiếp theo là thị trường Hàn Quốc với kim ngạch nhập khẩu đạt 11,9 tỷ USD, tăng 19%, trong đó, điện tử, máy tính và linh kiện tăng 52,8%; điện thoại và linh kiện tăng 13,6%. ASEAN đạt 7,3 tỷ USD, tăng 12,3%, trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 35,7%; xăng dầu tăng 33,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 26,5%. Nhật Bản đạt 4,2 tỷ USD, tăng 13,4% trong đó điện tử, máy tính và linh kiện tăng 46,5%; sắt thép tăng 5%. EU đạt 3 tỷ USD, tăng 7,2%, trong đó, hóa chất tăng 33,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 20,9%. Hoa Kỳ đạt 2,5 tỷ USD, tăng 11,5%.
Cán cân thương mại hàng hóa thực hiện tháng Ba ước tính xuất siêu 800 triệu USD. Tính chung quý I/2018 xuất siêu 1,3 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 6,3 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 7,6 tỷ USD./.
Bình luận