Một số quan điểm và giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam
PGS, TS. Bùi Quang Tuấn
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam
TÓM TẮT: Trong giai đoạn 10 năm (2011-2020), có nhiều thời điểm nền kinh tế trải qua bất ổn, như: tỷ lệ lạm phát ở mức cao, tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng cao, nợ công lớn, bội chi ngân sách cao. Thực trạng này là do mô hình tăng trưởng đã từng thành công trong hơn 30 năm đổi mới, nhưng nay không còn phù hợp. Mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư mở rộng, khai thác tài nguyên, nới lỏng tín dụng, lao động giá rẻ và sự lỏng lẻo trong quản lý môi trường có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng thiếu tính bền vững. Chính vì vậy, để phát triển bền vững đòi hỏi phải có mô hình tăng trưởng hợp lý và hiệu quả hơn. Từ khóa: lạm phát, mô hình tăng trưởng, tăng trưởng xanh bao trùm, lao động giá rẻ |
KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG HIỆN NAY
Qua đánh giá mô hình tăng trưởng của Việt Nam giai đoạn 2011-2020, bên cạnh những thành tựu to lớn không thể phủ nhận, vẫn còn một số hạn chế của mô hình tăng trưởng, thể hiện ở một số điểm khái quát như sau:
- Chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng chú trọng chất lượng và hiệu quả, năng lực cạnh tranh còn chậm. Tư duy dựa vào các “nguồn lực dễ” và “hái quả dưới thấp” đang còn phổ biến.
- Các nền tảng cho tăng trưởng dài hạn yếu làm cho chất lượng tăng trưởng thấp, trong đó đặc biệt là năng suất tăng chậm, khoảng cách quá xa so với các nước trong khu vực, dẫn đến việc Việt Nam tụt hậu trong cuộc đua đường trường về năng suất.
- Hiệu quả đầu tư đã được cải thiện hơn, nhưng vẫn còn thấp xa so với mức trung bình của khu vực.
- Hội nhập tương đối tốt, độ mở kinh tế cao, tăng trưởng xuất khẩu cao, thu hút FDI tốt, nhưng lan tỏa của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại rất hạn chế. Đối xử với khu vực này đang được ưu đãi hơn khu vực kinh tế tư nhân trong nước, trong khi đóng góp cho ngân sách của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại không tương xứng như vậy.
- Các doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, công nghiệp hỗ trợ còn có nhiều hạn chế trong phát triển.
- Tính bao trùm chưa thực sự đạt được: Việt Nam ở mức bất bình đẳng trung bình, chỉ xếp ở giữa bảng xếp hạng về mức bất bình đẳng của Diễn đàn Kinh tế thế giới cho các nước có mức thu nhập trung bình thấp. Chênh lệch phát triển giữa các tộc người, chênh lệch phát triển giữa các vùng miền vẫn là vấn đề lớn, khoảng cách có xu hướng doãng ra.
- Tăng trưởng dựa vào khoa học công nghệ (KHCN) vào đổi mới sáng tạo (ĐMST) còn rất hạn chế, đầu tư cho KHCN vào ĐMST quá ít, sự tham gia của khu vực tư nhân vào lĩnh vực này chưa được phát huy.
- Tăng trưởng xanh chưa thực hiện được bao nhiêu, cơ cấu năng lượng còn lạc hậu so với thế giới mặc dù tiềm năng về năng lượng tái tạo rất lớn. Nhiều mục tiêu phát triển bền vững khó có thể đạt được nếu không có những thay đổi quyết liệt.
- Phát triển vùng và liên kết vùng còn nhiều hạn chế, vướng mắc, mà chưa được giải quyết căn bản.
BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN MỚI CHO VIỆT NAM KHI CHUYỂN ĐỔI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
Bối cảnh phát triển mới đang đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho đổi mới mô hình tăng trưởng cho Việt Nam, tập trung ở những điểm sau:
(i) Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) tiếp tục có những đột phá về công nghệ và có ảnh hưởng sâu rộng ở cả cấp độ toàn cầu, quốc gia và địa phương (trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, internet vạn vật…). Chuyển đổi số đang tạo ra các hình thức phát triển và quản trị mới như kinh tế số, xã hội số, chính phủ điện tử. Thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR), công nghệ in 3D đang phát triển mạnh mẽ. Cuộc c CMCN 4.0 đang làm thay đổi căn bản cách thức sản xuất, chế tạo, làm xuất hiện hàng loạt các “nhà máy thông minh” liên kết với nhau qua một hệ thống.
CMCN 4.0 cũng đang mở ra cơ hội rất lớn để các nước đi sau có thể “nhảy cóc” (không trải qua tuần tự các bước phát triển) và thu hẹp khoảng cách công nghệ và năng suất với các nước đi trước. Chuyển giao ứng dụng công nghệ mới cho phép tạo ra những mô hình sản xuất, kinh doanh hiệu quả và cho phép kết hợp các ngành sản xuất và dịch vụ với nhau. Các xu hướng “thông minh” sẽ ngày càng được áp dụng nhiều hơn, như: nông nghiệp thông minh, đô thị thông minh, giao thông thông minh, nhà thông minh… Kinh tế số ra đời với sự xuất hiện của một loạt các hình thức và mô hình kinh doanh và cả những ngành sản xuất và dịch vụ mới. Kinh tế số sẽ tạo ra các cơ hội rộng rãi cho tất cả mọi người có thể tham gia vào hoạt động kinh doanh, không phụ thuộc vào vị trí địa lý và vị trí trong xã hội. Một loạt các ngành kinh tế cũng sẽ có cơ hội để tái cơ cấu và phát triển.
(ii) Biến đổi khí hậu (BĐKH) tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, làm ảnh hưởng lớn đến các hoạt động sản xuất trong nông nghiệp, phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị. Theo Kịch bản BĐKH 2015, nếu nước biển dâng cao 1m, thì vùng Tây Nam bộ là khu vực có nguy cơ ngập cao nhất, 38,9% diện tích, trong đó, đặc biệt, tỉnh Kiên Giang có diện tích ngập lớn nhất 75%. Điều này sẽ tác động lớn đến sản xuất nông nghiệp, an ninh việc làm của phần lớn lao động nông thôn. Diện tích đất của khu vực này có nguy cơ bị nhiễm mặn nặng, mùa màng bị thiệt hại nghiêm trọng do lũ lụt và úng ngập. BĐKH tạo ra những thách thức lớn trong việc đảm bảo sinh kế của người dân, chuyển đổi cơ cấu kinh tế của quốc gia và của vùng. BĐKH tạo ra những thách thức cho giảm nghèo bền vững đối với những vùng phụ thuộc vào khí hậu, vào diện tích canh tác sử dụng nước ngọt, nhưng bị xâm nhập mặn do nước biển dâng.
(iii) Các cam kết quốc tế về cắt giảm phát thải khí nhà kính là những thách thức lớn trong tăng trưởng theo hướng xanh, đòi hỏi Việt Nam phải có những nỗ lực rất lớn. Trong khuôn khổ Thỏa thuận Paris lần thứ 21 (COP21) tháng 12/2014, Việt Nam đã cam kết cắt giảm 8% khí nhà kính vào năm 2030 so với mức kinh doanh bình thường (BAU) và sẽ giảm 25% nếu có sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế (CCAFS, 2017). Mặc dù Việt Nam đã ban hành Quyết định số 2053/QĐ-TTg, ngày 28/10/2016 phê duyệt Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH, với 68 danh mục nhiệm vụ cần thực hiện trong giai đoạn 2016-2030, nhưng việc thực hiện thỏa thuận này là thách thức lớn.
(iv) Toàn cầu hóa sẽ tiếp tục, không thể đảo ngược mặc dù có những bước thăng trầm do xuất hiện chủ nghĩa bảo hộ. Các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, như: Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam và EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP)… và những thay đổi trong chiến lược phát triển của các đối tác lớn của Việt Nam, như: Hàn Quốc và Nhật Bản… mở ra những cơ hội lớn trong việc tiếp cận thị trường và phát huy các lợi thế so sánh của Việt Nam cũng như tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, các thách thức về hàng rào kỹ thuật, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ được xuất hiện nhiều hơn đòi hỏi phải có đầu tư nhiều hơn cho công nghệ, liên kết chuỗi sản phẩm để đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu. Sự gia tăng các FTA thế hệ mới cũng có tác động tới việc khuyến khích tạo ra và chia sẻ tri thức mới.
(v) Việt Nam đang có một cơ hội vô cùng hiếm về cấu trúc dân số vàng, tức tỷ lệ của số người phụ thuộc chỉ bằng một nửa số người ở độ tuổi lao động. Cấu trúc dân số này xuất hiện nhanh và sẽ biến đi rất nhanh. Thêm vào đó, thế và lực của Việt Nam cũng đang ở thời điểm thuận lợi. Việt Nam đang nổi lên như là một điểm hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài. Thương chiến Mỹ - Trung đang tạo ra nhiều cơ hội Việt Nam thu hút thêm đầu tư nước ngoài. Việt Nam đang có những khát vọng lớn, quyết tâm bắt kịp với các nước đi trước trong khu vực và nằm trong nhóm thu nhập trung bình cao. Đây là cơ hội vàng cho Việt Nam và nếu không tận dụng ngay thì cơ hội này sẽ qua đi mất.
Với bối cảnh như vậy, cần phải quyết liệt chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
QUAN ĐIỂM ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
(i) Thực hiện mô hình tăng trưởng xanh bao trùm
Phải kiên quyết thực hiện mô hình tăng trưởng xanh bao trùm, trong đó tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định phải được lồng ghép chặt chẽ với bình đẳng và phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với BĐKH. Mô hình tăng trưởng này yêu cầu ngay từ khi thiết kế chính sách kinh tế đã phải tính đến các chiều cạnh xã hội và môi trường. Như vậy, sẽ không có các chính sách kinh tế thuần túy, bị tách rời trong mô hình này. Không thể và không nên tiếp tục tư duy tăng trưởng kinh tế trước rồi sau đó bắt đầu giải quyết các bài toán xã hội và môi trường của từng lĩnh vực và thực hiện từng mục tiêu cụ thể của phát triển bền vững. Thực hiện mô hình tăng trưởng xanh bao trùm là nhắm tới giải quyết đồng thời được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, công bằng và phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với BĐKH. Thực hiện mô hình tăng trưởng xanh bao trùm đồng nghĩa với việc tạo cơ sở quan trọng để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Từ trước tới nay, chúng ta chưa có tên gọi cho mô hình tăng trưởng với nội dung này, mà chỉ dùng chung chung là mô hình tăng trưởng theo chiều sâu. Cụ thể: Văn kiện ĐH XII nêu: “Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu là dựa vào khoa học và công nghệ hiện đại, nâng cao hiệu quả, chất lượng của tăng trưởng, như: nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động, nâng cao sự đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TFP), hướng hoạt động của nền kinh tế vào các ngành, lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, giảm chi phí sản xuất, chủ động sản xuất và xuất khẩu hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao, trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế của đất nước. Tăng trưởng theo chiều sâu không chỉ nâng cao chất lượng, hiệu quả nền kinh tế, mà còn gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện phúc lợi xã hội...”. Do vậy, chúng ta nên có một tên gọi thể hiện rõ được tư tưởng và nội dung của chiến lược này cũng như phù hợp hơn với lý thuyết kinh tế đã được công nhận rộng rãi. Tổng quan nghiên cứu trong lý thuyết kinh tế hiện nay cho thấy, không có ai đưa ra mô hình tăng trưởng với tên gọi tăng trưởng theo chiều sâu ở trong lý thuyết kinh tế chính thống.
(ii) Coi ĐMST là trụ cột quan trọng nhất trong mô hình tăng trưởng xanh bao trùm trong giai đoạn bước vào kỷ nguyên số và kinh tế số
Thực hiện tăng trưởng xanh bao trùm phải dựa chủ yếu vào các động lực của KHCN và ĐMST như là nội sinh. Đây là cả một hệ sinh thái bao gồm nhiều yếu tố, trong đó nguồn nhân lực có kỹ năng và trình độ là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra, còn phải có sự chung tay đóng góp của cả cộng đồng của một xã hội có lối sống văn minh, sản xuất và tiêu dùng thân thiện với môi trường. Nhiều quan niệm cho rằng, trước đây chúng ta đã có trụ cột về nhân lực chất lượng cao là đã có hàm ý về KHCN và ĐMST. Chúng tôi cho rằng, quan niệm như thế là không hợp lý và không chính xác. Có 3 lý do:
Thứ nhất, ĐMST là một hệ sinh thái bao gồm nhiều yếu tố (ví dụ như Chỉ số Bloomberg Innovation Index để tính toán xếp hạng ĐMST dựa trên 6 tiêu chí: Nghiên cứu và triển khai (research and development); Công nghiệp chế biến (manufacturing); Các công ty công nghệ cao (high-tech companies); Giáo dục sau phổ thông (post-secondary education); Lực lượng nghiên cứu (research personnel) và Phát minh sáng chế (patents). Chỉ số của Global Innovation Index (GII) của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) có 7 nhóm chỉ số, bao gồm: (i) Thể chế (bao gồm: thể chế chính trị, môi trường chính sách, thể chế môi trường kinh doanh); (ii) Nguồn vốn con người và nghiên cứu (bao gồm giáo dục, dạy nghề, R&D); (iii) Hạ tầng (bao gồm: ICT, hạ tầng chung, và hạ tầng môi trường); (iv) Tính phức tạp của thị trường (bao gồm: tín dụng, cạnh tranh, thương mại và qui mô kinh tế; (v) Mức độ phức tạp về kinh doanh (bao gồm: lao động kiến thức, sáng tạo và năng lực hấp thụ kiến thức); (vi) Kiến thức và đầu ra công nghệ (bao gồm: tạo ra kiến thức, tác động của kiến thức và lan tỏa kiến thức); (vii) Đầu ra của sáng tạo (bao gồm: tài sản vô hình, các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ sáng tạo và sáng tạo trên mạng). Như vậy, ĐMST có rất nhiều nội dung, mà nguồn nhân lực chỉ là một trong số đó.
Thứ hai, giai đoạn mới là giai đoạn của kỷ nguyên số, của kinh tế số với ứng dụng những phát minh KHCN đột phá, quốc gia nào làm chủ được công nghệ và nắm bắt công nghệ, thì quốc gia đó sẽ chiến thắng trong cuộc cạnh tranh lâu dài. Hơn nữa, bối cảnh hiện nay hầu như đang đặt các quốc gia vào một điểm khởi đầu chung của cuộc đua về ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin. Quốc gia ứng dụng tốt, tạo được môi trường cho doanh nghiệp và người dân được thuận lợi và có cơ hội tham gia sâu vào quá trình đó tốt, thì quốc gia đó có thể có bước phát triển đột phá và nhanh, có thể bỏ qua một số giai đoạn của sự tuần tự phát triển. Như vậy, chiến lược của một quốc gia phải tập trung nguồn lực và ưu tiên cho việc nắm bắt và ứng dụng công nghệ nếu không muốn bị bỏ lại sau trong cuộc cạnh tranh khốc liệt, dài hơi, có tính toàn cầu này. Điều này đòi hỏi phải đặt KHCN và ĐMST lên hàng đầu của các trụ cột được ưu tiên và phải có đầu tư xứng đáng về nguồn lực cho nó cho giai đoạn 10 năm tới. Việc đặt thứ tự ưu tiên cho ĐMST quyết định việc nguồn lực đầu tư cho nó có được ưu tiên hay không.
Thứ ba, mặc dù có một chút cải thiện về thứ bậc, nhưng nếu so sánh với các quốc gia trong khu vực thì Việt Nam vẫn nằm ở nhóm sau về ĐMST. Theo đánh giá của báo cáo của WIPO, Việt Nam đứng thứ 42 trên thế giới trong bảng xếp hạng GII năm 2019 (năm 2018 đứng thứ 45). Các nước có sự phát triển bền vững và thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình đều có mức xếp hạng cao trong bảng xếp hạng này. Điều này hàm ý rằng, Việt Nam cần phải đặt ĐMST như là một trụ cột riêng và có tính ưu tiên cao để có những bước phát triển nhảy vọt và vượt được qua bẫy thu nhập trung bình, chứ không nên để lẫn hay lồng ghép vào một trụ cột đang có nào khác.
(iii) Khu vực kinh tế tư nhân cần phải được coi là khu vực kinh tế quan trọng hàng đầu
Bản thân khu vực kinh tế tư nhân hiện nay cho thấy nó đang đứng hàng đầu về cơ cấu đóng góp vào GDP rồi. Theo Sách Trắng Việt Nam 2019, khu vực kinh tế tư nhân trong nước tạo ra khoảng 42% GDP, 30% thu ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động cả nước. Vốn đầu tư của khối tư nhân đã tăng nhanh trong nền kinh tế. Nếu năm 2010, vốn tư nhân chỉ chiếm 36,1%, thì đến năm 2018 đã tăng lên 43,27%. Như vậy, chỉ tính riêng năm 2018, vốn đầu tư của khối tư nhân là 803.000 tỷ đồng. Số liệu thống kê cho thấy, khu vực kinh tế ngoài nhà nước có mức đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn đầu tư xã hội (chiếm 46% GDP) và có mức tăng trưởng cao nhất (tốc độ tăng vốn đạt 17,3% so với năm trước). Thêm vào đó, quy mô của doanh nghiệp cũng lớn hơn, số doanh nghiệp có quy mô lớn ngày một tăng. Năm 2019, doanh nghiệp quy mô lớn chiếm 2,8%, tăng 4 điểm phần trăm so với năm 2016 (chiếm 2,4%). Đã có 9/29 doanh nghiệp có giá trị vốn hóa trên 1 tỷ USD thuộc khu vực tư nhân. Tuy nhiên lực lượng hàng đầu này lại chưa được chăm sóc theo đúng vai trò của nó, mà vẫn còn rất nhiều rào cản đang hạn chế khu vực này phát triển. Khu vực này cần phải được cải thiện hơn nữa về năng suất và phải đi đầu về năng suất. Quy mô to nhỏ có thể không quan trọng bằng năng suất và chất lượng, hiệu quả trong cạnh tranh.
(iv) Thực thi hiệu quả các chiến lược và chính sách đã đưa ra
Chúng ta hiện đang có nhiều chiến lược và chính sách, tuy nhiên việc thực hiện các chiến lược và chính sách này đang thiếu hiệu quả và là điểm nghẽn lớn. Lý do chủ yếu bao gồm cả việc thiết kế chính sách chưa sát với thực tiễn, còn chồng chéo với các chính sách khác lẫn năng lực thực hiện và nguồn lực để đảm bảo thực hiện còn nhiều hạn chế. Giai đoạn 10 năm tới, phải được coi là năm cho các nỗ lực thực thi cải cách hành chính để nâng cao năng lực thực thi chính sách, tránh tình trạng “chính sách chồng chính sách” nhưng chu kỳ chính sách ngắn, ít tác động trên thực tế. Cải cách hành chính để có được bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu quả, chuyên nghiệp, có năng lực ĐMST trong hoạt động và phục vụ doanh nghiệp và người dân là hết sức quan trọng cho việc thực hiện chính sách. Kỹ năng, kiến thức và kỷ luật là những yếu tố chính, quan trọng nhất quy định chất lượng của nhân sự trong bộ máy.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
Cần phải mạnh mẽ thực hiện các giải pháp sau để chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam giai đoạn tới:
Một là, về phát triển KHCN và ĐMST
- Phát triển mạnh mẽ KHCN và ĐMST, coi đó là động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế. Ứng dụng KHCN phải là một nội dung được ưu tiên của các lĩnh vực và các cấp, các ngành. Cần tập trung ưu tiên nguồn lực quốc gia để đầu tư cho phát triển KHCN.
- Đổi mới mạnh mẽ phương thức đầu tư, cơ chế quản lý, đặc biệt là cơ chế tài chính cho phát triển KHCN và ĐMST; thực hiện thí điểm một số cơ chế khoán toàn phần cho khoa học, đặt trách nhiệm cao hơn cho các nhà khoa học, thực hiện hậu kiểm hơn là tiền kiểm đối với hoạt động khoa học; đổi mới chính sách cơ chế tự chủ của các tổ chức KHCN phù hợp với kinh tế thị trường. Tăng lương cho các nhà khoa học và nghiên cứu và triển khai, tạo môi trường thuận lợi, cải thiện mạnh mẽ điều kiện vật chất để cán bộ KHCN yên tâm làm việc và cống hiến.
- Tăng cường hội nhập trong lĩnh vực KHCN và ĐMST. Đẩy mạnh hội nhập sâu rộng về đào tạo phục vụ cho ứng dụng KHCN và ĐMST. Có chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI lớn, đặc biệt là công nghệ mới, công nghệ hiện đại.
- Tích cực khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư cho KHCN và ĐMST, huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển KHCN và ĐMST. Khuyến khích, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KHCN, đổi mới công nghệ.
- Tích cực khuyến khích người tài về phục vụ đất nước, đặc biệt là người tài có tâm huyết và đã có trình độ, kinh nghiệm và có mối quan hệ và mạng lưới rộng ở trên thế giới.
- Sắp xếp lại hệ thống tổ chức KHCN theo hướng tạo ra đơn vị mạnh, có năng lực nghiên cứu và triển khai. Xây dựng các trung tâm khoa học và ĐMST hiện đại, theo hướng mở để thu hút nguồn lực và nhân tài ở nước ngoài và trong nước về làm việc ở các trung tâm này. Khuyến khích đầu tư của tư nhân vào các trung tâm này.
- Phát triển mạnh thị trường KHCN, trong đó đặc biệt có dịch vụ KHCN, thị trường phát minh sáng chế và thị trường ý tưởng trong nền kinh tế số.
- Tăng cường liên kết giữa các tổ chức KHCN với doanh nghiệp, nhà quản lý, nhà nông và các ngân hàng.
- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn, chất lượng sản phẩm, chỉ dẫn địa lý...
Hai là, về tăng trưởng xanh bao trùm
- Đổi mới mạnh mẽ hơn nữa nhận thức về yêu cầu của bối cảnh mới và yêu cầu phải thực hiện tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Nhận thức của xã hội về tăng trưởng xanh và phát triển bền vững đã có cải thiện nhiều so với giai đoạn trước đây. Tuy nhiên, để nhận thức đầy đủ và lồng ghép quan điểm đó vào thực hiện thì còn một khoảng cách khá xa. Việc đẩy mạnh và nâng cao nhận thức là một việc hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
- Cần phải xây dựng chiến lược và có các biện pháp cụ thể để thực hiện kinh tế tuần hoàn, kinh tế sinh thái ở các khu công nghiệp và cụm công nghiệp trên thực tế một cách rộng rãi cũng như thí điểm ở một số lĩnh vực có điều kiện thực hiện.
- Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu năng lượng theo hướng sử dụng nhiều hơn năng lượng tái tạo để giảm mức độ phát thải. Xây dựng quy hoạch điện quốc gia theo hướng của tăng trưởng xanh nhiều hơn và cập nhật hơn với thế giới, đưa nguồn điện năng sử dụng năng lượng tái tạo lên 15%-20% tổng công suất điện quốc gia vào năm 2030.
- Quyết liệt hơn trong việc thực hiện “Chiến lược sử dụng công nghệ sạch giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” để thực hiện xanh hóa sản xuất.
- Đẩy mạnh thực hiện tiêu dùng bền vững và lối sống xanh, đẩy mạnh các biện pháp thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở thành thị và nông thôn. Kết hợp tiêu dùng xanh với tiêu dùng thông minh, tiêu dùng số.
- Phát triển đô thị xanh và đô thị thông minh để thực hiện tăng trưởng xanh, bao trùm. Giải quyết ô nhiễm không khí ở các thành phố lớn bằng các giải pháp về giao thông thông minh, giao thông công cộng. Giải quyết dứt điểm các vấn đề ô nhiễm ở nhiều làng nghề đặc biệt là ô nhiễm môi trường không khí và môi trường nước.
- Thực hiện thống kê và sử dụng song song các tiêu chí GDP và GDP xanh, cũng như các chỉ tiêu của tăng trưởng xanh để có giám sát tốt quá trình tăng trưởng và phát triển theo hướng tăng trưởng xanh bao trùm.
Ba là, về phát triển khu vực kinh tế tư nhân
- Đảm bảo bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực cho khu vực tư nhân, trong đó có đất đai, biến quyền sử dụng đất nông nghiệp là tài sản của nông dân và có thể vốn hóa được tài sản này, có thể trao đổi như hàng hóa trên thị trường.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) để đảm bảo cạnh tranh công bằng, nâng cao được năng lực thích ứng với bối cảnh mới đặc biệt là kinh tế số.
- Bộ máy hành chính phải thật sự liêm chính, kiến tạo vì sự phát triển và lợi ích của doanh nghiệp và người dân. Có thưởng, phạt mạnh mẽ để xây dựng đội ngũ và bộ máy liêm chính.
- Khuyến khích và giúp đỡ doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi giá trị sản phẩm toàn cầu, thông qua hỗ trợ nâng cao năng lực công nghệ và liên kết với các đối tác trong và ngoài nước, hỗ trợ kết nối và thông tin thị trường trong nước với thị trường nước ngoài.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính để thuận lợi hóa mạnh mẽ môi trường kinh doanh và đầu tư cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng, tiếp tục rà soát, cắt giảm các thủ tục kinh doanh đang là rào cản lớn cho các doanh nghiệp.
- Hỗ trợ đào tạo và hỗ trợ thông tin cho các doanh nghiệp tư nhân hoạt động trên thị trường. Cơ sở thông tin quốc gia hiện nay đang chưa có tính thống nhất và chưa liên thông, chưa phổ biến được cho các doanh nghiệp. Cần phải xây dựng cơ sở dữ liệu thống nhất có tính chính thống, dễ truy cập, dễ chia sẻ, đáp ứng với yêu cầu cấp thiết về thông tin về cơ hội và rủi ro trên thị trường, cũng như cho việc phân tích và dự báo.
Bốn là, về thực thi hiệu quả các chính sách
- Cần phải tập trung vào giải quyết những điểm nghẽn thể chế, đặc biệt là năng lực thực hiện và nguồn lực để đảm bảo cho thực hiện. Nâng cao năng lực bộ máy, áp dụng các mô hình quản trị hiện đại là rất cần thiết. Bên cạnh đó, đẩy mạnh đào tạo nhân sự nội bộ, có cơ chế tuyển dụng người tài, người có năng lực vào bộ máy công quyền, cũng như có cơ chế sàng lọc bộ máy thường xuyên để thải loại những người không đáp ứng được yêu cầu mới là rất quan trọng. Cần xem xét phân bổ nguồn lực cho việc thực thi, đồng thời thu hút các nguồn lực tài chính quốc tế thông qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật để giúp các cơ quan công quyền thực thi hiệu quả các chính sách.
- Bên cạnh nội dung kiến tạo, cần nâng cao tính liêm chính và trong sạch của bộ máy thực thi. Tham nhũng đang trở thành một nét văn hóa đương nhiên và trở thành một xu hướng nguy hiểm có thể dẫn tới hạn chế và làm đình trệ kinh doanh và đầu tư của khu vực tư nhân, hạn chế tăng trưởng và thậm chí dẫn tới mất ổn định về chính trị. Đây là một xu hướng ngày càng gia tăng cần phải có giải pháp xử lý mạnh để đối phó ngay. Cần phải kiểm soát tham nhũng một cách quyết liệt và mạnh tay, tạo ra sự minh bạch và liêm chính trong quản lý và thực hiện chính sách, tạo điều kiện cho người dân tham gia góp ý trong quá trình xây dựng chính sách, thực hiện chính sách và tố giác tham nhũng.
- Đẩy nhanh và khuyến khích phát triển kinh tế số và các mô hình của kinh tế số. Hoàn thiện và nâng cấp Chính phủ điện tử, Cổng Thông tin một cửa Quốc gia, Cổng Dịch vụ công Quốc gia… để giúp nâng cao năng suất, năng lực quản trị quốc gia, cũng như giảm thiểu cơ hội tham nhũng của bộ máy trong việc cung cấp dịch vụ công.
- Thành lập cơ quan mới liên quan đến kinh tế số, kinh tế sáng tạo, ví dụ như cần phải nghiên cứu thành lập một Bộ Kinh tế Sáng tạo để đảm bảo lập kế hoạch ra phải có nguồn lực thực hiện, cũng như gắn chặt chẽ hơn với nội dung ĐMST trong bối cảnh của chuyển đổi số trong giai đoạn tới. Trên thực tế, đã có nhiều nước trên thế giới có Bộ Kinh tế, Sáng tạo và Việc làm (như ở New Zealand), hoặc Bộ Kinh tế, Nông nghiệp và Sáng tạo (như ở Hà Lan)… tức là gắn kinh tế với ĐMST.
- Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao để đáp ứng được các yêu cầu trong bối cảnh mới của kinh tế số và kinh tế sáng tạo. Cần đổi mới các chương trình đào tạo để đào tạo được đội ngũ nhân lực có năng lực trong kỷ nguyên số, có tính chuyên nghiệp, có kỹ năng nắm bắt và phân tích, cũng như ứng dụng được các phần mềm kỹ thuật số trong hoạt động hàng ngày.
- Phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức chính trị xã hội, xã hội dân sự trong xây dựng chính sách và pháp luật, cũng như trong việc giám sát việc thực thi chính sách và pháp luật.
Năm là, các giải pháp khác để đảm bảo tính đồng bộ
- Tiếp tục đẩy mạnh và hoàn thiện các thị trường nguồn lực cho tăng trưởng như lao động, vốn, KHCN và ĐMST, ý tưởng, dữ liệu lớn… Cần phải tuân thủ triệt để hơn cơ chế thị trường trong phân bổ nguồn lực.
- Tiếp tục ổn định vĩ mô nền kinh tế, coi đây là yếu tố quan trọng hàng đầu để thu hút đầu tư kinh doanh lâu dài của các doanh nghiệp cả khu vực trong nước và ngoài nước.
- Thành lập Kho ý tưởng hay Quỹ ý tưởng và phát minh sáng chế quốc gia có thể sẵn sàng chia sẻ và hỗ trợ cho việc ứng dụng: Khuyến khích các ý tưởng mới và phát minh sáng chế, đồng thời thành lập kho ý tưởng và phát minh sáng chế và dễ dàng chia sẻ chúng cho tất cả các bên quan tâm, đặc biệt là doanh nghiệp để có thể ứng dụng trên thực tế. Hiện doanh nghiệp còn rất hạn chế trong tiếp cận các phát minh sáng chế đã được đăng ký sở hữu trí tuệ ở trong và ngoài nước, mặc dù đã có Cục Sở hữu trí tuệ và nhiều kênh online về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, các phương tiện tra cứu chưa được sử dụng rộng rãi và chưa được cập nhật đầy đủ theo cách hiện đại. Điều đó cho thấy, việc chia sẻ và lan tỏa của ĐMST còn rất hạn chế và có nhiều không gian để hoàn thiện. Cần có các cơ quan dịch vụ tư vấn và hỗ trợ tra cứu và hỏi đáp về bằng phát minh sáng chế và các ý tưởng mới, cũng như khuyến khích các doanh nghiệp dịch vụ về lĩnh vực này.
- Phát huy và khuyến khích tinh thần khởi nghiệp gắn với kinh tế số, kinh tế chia sẻ và các loại hình kinh tế mới tương đương. Định hướng và khuyến khích cho những lĩnh vực mới của kinh tế số phát triển, nhất là dịch vụ số, phân tích dữ liệu lớn, dịch vụ tìm kiếm số, đào tạo kỹ năng số, đa dạng hóa cơ hội việc làm liên quan đến kinh tế số. Có cơ chế khuyến khích mạnh mẽ việc hình thành các Start up. Ví dụ như, thành lập nhiều Quỹ hỗ trợ khởi nghiệp, Quỹ hỗ trợ phát triển kinh tế số… có sự đóng góp vốn mồi của Nhà nước và sự tham gia của các tập đoàn tư nhân có tiềm lực mạnh về tài chính cả trong và ngoài nước để phát triển các doanh nghiệp số và doanh nghiệp trong nền kinh tế số.
- Đảm bảo một cách mạnh mẽ về quyền sở hữu trí tuệ: hệ thống sở hữu trí tuệ mạnh là cơ sở, tiền đề để một quốc gia kiểm soát các hoạt động kinh doanh và bảo vệ thương hiệu. Phải thực thi quyền sở hữu trí tuệ thật tốt, thì mới khuyến khích ĐMST và các phát minh sáng chế. Có chế tài mạnh mẽ để xử lý việc vi phạm các bản quyền sáng chế và sở hữu trí tuệ.
- Về hội nhập, tạo lập và củng cố niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài và tận dụng tốt các mối quan hệ đang ngày càng chặt chẽ với một số quốc gia châu Á, đặc biệt là Hàn Quốc và Nhật Bản, để thu hút hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) của các công ty đa quốc gia từ các nước này vào Việt Nam.
- Tăng cơ hội tiếp cận đến các công nghệ tiên tiến, tạo môi trường, cũng như hành lang pháp lý để các cá nhân, tổ chức yên tâm đầu tư phát triển ý tưởng sáng tạo, đưa ra thị trường những sản phẩm chất lượng, có tính ứng dụng cao, cũng như tiếp cận các ý tưởng sáng tạo của thế giới.
- Tiếp tục nâng cao năng lực quản trị của cả Nhà nước, doanh nghiệp nông nghiệp và doanh nghiệp tư nhân, coi đó như một yêu cầu không thể tách rời của ĐMST của các chủ thể.
- Tiếp tục đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo để cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao và lao động có kỹ năng đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tăng trưởng và nền kinh tế số.
- Đẩy mạnh liên kết vùng bao gồm liên vùng và nội vùng. Nên có mô hình vùng phù hợp với các vùng và xây dựng thể chế vùng phù hợp. Nên tiếp tục có thí điểm về thể chế vùng, các “Sandbox” để có đột phá: thành lập hội đồng vùng kiểu mới để có liên kết tốt hơn (Sandbox" là khu vực được thử nghiệm những mô hình kinh tế mới. Mô hình thử nghiệm "Sandbox" được đề cập tại Hoa Kỳ từ năm 2012, và được khởi xướng bởi Vương quốc Anh năm 2015, và cũng chỉ có một số quốc gia phát triển áp dụng, như: Singapore, Malaysia, Nhật Bản, Australia, Hoa Kỳ, Hàn Quốc...).
- Đẩy mạnh cải cách giáo dục theo hướng đào tạo chuyên ngành chuyên sâu và đào tạo giảng dạy đạo đức bên cạnh đào tạo về kiến thức, thể lực và mỹ thuật.
- Đẩy mạnh liên kết giữa đào tạo với thị trường, giữa đào tạo nghề với cầu lao động của doanh nghiệp trên thị trường.
- Tiếp tục tập trung tái cơ cấu doanh nghiệp nông nghiệp, đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nông nghiệp, chú trọng đến năng lực cạnh tranh và quản trị doanh nghiệp.
- Phát triển và khuyến khích phát triển hệ thống đô thị sinh thái và đô thị thông minh để đóng góp cho việc thực hiện tăng trưởng xanh bao trùm.
- Xây dựng trung tâm thông tin và cơ sở dữ liệu thống nhất của quốc gia có thể chia sẻ được và cùng với các thành tựu của công nghệ thông tin, biến thông tin trở thành là nguồn tài nguyên quý giá cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Cần thành lập một tổ chức thông tin riêng, độc lập để quản trị và điều hành việc quản lý, bảo mật thông tin.
- Có các biện pháp đối phó với rủi ro của kinh tế số trong kỷ nguyên số, trong đó đặc biệt là các các sự cố có tầm ảnh hưởng quốc gia, như: tấn công mạng, các vấn đề an ninh mạng, bảo vệ an toàn người tiêu dùng số, có cơ chế phản ứng nhanh với sự cố xảy ra về mạng và đảm bảo an ninh mạng.
- Xây dựng, bảo tồn và phát huy vai trò của các yếu tố văn hóa truyền thống để tạo ra những giá trị cốt lõi của người Việt để lồng ghép trong mô hình tăng trưởng xanh bao trùm.
- Đảm bảo môi trường chính trị và an ninh ổn định, xã hội thái bình để có điều kiện thực hiện được mô hình tăng trưởng xanh bao trùm, qua đó đạt được các khát vọng và các mục tiêu phát triển con người Việt Nam./.
(Đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 4 tháng 02/2020)
Bình luận