Năng suất lao động thấp làm giảm sút tăng trưởng GDP
Đây là nhận định của PGS, TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) trong buổi đối thoại chính sách tăng năng suất lao động cho Việt Nam tổ chức ngày 26/9/2018.
Sự kiện do VEPR phối hợp với Viện Konrad – Adenauer Stiftung (KAS) tổ chức nhằm tạo diễn đàn cùng trao đổi, thảo luận, tìm kiếm các giải pháp để tăng năng suất lao động Việt Nam, phát triển bền vững.
Năng suất lao động Việt Nam không bắt kịp các nước Đông Nam Á
Tại buổi đối thoại, PGS, TS. Nguyễn Đức Thành cho biết, tốc độ tăng trưởng năng suất lao động của Việt Nam tương đối cao. Cụ thể, năng suất lao động bình quân của Việt Nam tăng từ 38,64 triệu đồng/lao động năm 2006 lên mức 60,73 triệu đồng/lao động năm 2017. Tốc độ tăng trưởng bình quân năng suất lao động giai đoạn 2012-2017 là 5,3%. Đặc biệt, năm 2015, tăng trưởng năng suất lao động đạt tốc độ cao nhất với 6,49%.
PGS, TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR phát biểu khai mạc chương trình
Việt Nam còn có năng suất lao động ngành cao hơn nhiều quốc gia trong ba nhóm ngành: khai mỏ và khai khoáng; tài chính, bất động sản và dịch vụ văn phòng; dịch vụ cộng đồng, xã hội, cá nhân.
Song năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở mức thấp khi so sánh với năng suất lao động bình quân của các nhóm nước phân chia theo thu nhập. Cụ thể, năm 2017, năng suất lao động của Việt Nam gấp 2 lần năng suất lao động trung bình của nhóm nước thu nhập thấp, bằng hơn 50% nhóm nước thu nhập trung bình thấp và chỉ bằng 18,3% nhóm các nước thu nhập trung bình cao.
Bên cạnh đó, năng suất lao động ngành của Việt Nam cũng thấp nhất khi so sánh với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Philippines, Malaysia và Campuchia. Cụ thể, trong năm 2015, dù đạt tốc độ tăng trưởng năng suất lao động cao nhất, nhưng năng suất lao động của Việt Nam thấp nhất, xếp sau Campuchia ở ba ngành: công nghiệp chế biến, chế tạo; xây dựng; vận tải, kho bãi và truyền thông.
Năng suất lao động của Việt Nam thấp thứ hai, chỉ cao hơn Campuchia ở nhóm ngành: nông nghiệp; điện, nước, khí đốt; bán buôn, bán lẻ, sửa chữa.
Theo PGS, TS. Nguyễn Đức Thành, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có xu hướng suy giảm sớm, trong khi thu nhập bình quân đầu người vẫn còn ở mức rất thấp. Sự sụt giảm trong năng suất lao động là nguyên nhân làm giảm sút tăng trưởng GDP của Việt Nam từ các năm 2003-2013.
Hơn nữa, “năng suất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo còn thấp, trong khi đây là “lõi” của nền kinh tế cần phải có năng suất cao. Trong dài hạn, một nước muốn có tăng trưởng bền vững, thì ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cũng cần tăng trưởng bền vững”, PGS, TS. Nguyễn Đức Thành nhận định.
Còn với ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản của Việt Nam mặc dù có nhiều lợi thế phát triển, nhưng vẫn nằm trong số các ngành có mức năng suất lao động thấp nhất nền kinh tế.
Bàn về vấn đề năng suất lao động của Việt Nam, ông Peter Girke, Trưởng Đại diện Viện KAS tại Việt Nam cho biết, nền kinh tế của Việt Nam đã phát triển một cách liên tục và đạt được những thành tựu lớn. Nhưng vấn đề năng suất lao động lại chưa có sự tăng trưởng tương xứng, so với nhiều quốc gia trong khu vực thì Việt Nam đang có vấn đề về năng suất lao động.
Toàn cảnh buổi đối thoại
Ở một góc nhìn khác, TS. Lê Văn Hùng, Viện Kinh tế Việt Nam (VIE) cho biết, khu vực FDI giữ vai trò quan trọng đóng góp vào tăng trưởng của năng suất lao động của Việt Nam. Tuy nhiên, đóng góp của khu vực FDI phần lớn do lao động dịch chuyển từ khu vực nội địa có năng suất lao động thấp sang khu vực FDI với năng suất lao động tuyệt đối cao hơn (chiếm 64%). Đóng góp từ tăng trưởng của năng suất lao động của chính khu vực FDI chiếm tỷ lệ nhỏ hơn rất nhiều, chỉ chiếm 36%.
“Mức độ liên kết giữa khu vực FDI và khu vực nội địa hầu hết đều thấp ở tất cả các ngành, đặc biệt nhóm ngành công nghệ và kỹ năng cao. Điều đó cho thấy, khả năng tác động gián tiếp vào năng suất lao động của khu vực FDI thông qua công nghệ và kỹ năng lao động là rất thấp”, TS. Lê Văn Hùng cho hay.
Cần làm gì để tăng năng suất lao động?
Để Việt Nam đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững, có thể vượt qua bẫy thu nhập trung bình, thì việc nâng cao năng suất lao động là rất cần thiết.
Do đó, PGS, TS. Nguyễn Đức Thành cho rằng, nếu Việt Nam có thể mở rộng thị trường quốc tế nhanh hơn nữa cho các ngành cho năng suất lao động cao, thì sẽ giảm nhẹ được hiệu ứng làm giảm tăng trưởng năng suất lao động. Viện trưởng VEPR nhấn mạnh rằng, hiệu ứng nội ngành dần vượt qua hiệu ứng dịch chuyển để dẫn dắt năng suất lao động của Việt Nam là xu hướng tích cực và cần được duy trì.
Bên cạnh đó, Viện trưởng VEPR khẳng định, muốn kinh tế đất nước phát triển nhanh và bền vững, thì những cải cách thể chế, hành chính phải làm cho năng suất lao động tăng.
Thực tế cho thấy, những nước thành công, như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore… có giai đoạn tăng trưởng rất nhanh, thì việc tăng năng suất lao động là vấn đề “lõi”. Các nước này có chương trình về thúc đẩy tốc độ phát triển năng suất và có giai đoạn năng suất lao động tăng rất mạnh.
Vì vậy, PGS, TS. Nguyễn Đức Thành kiến nghị, đây là thời điểm Việt Nam cần xây dựng phong trào tăng năng suất lao động giống như Nhật Bản, Singapore và Hàn Quốc đã từng thực hiện trong giai đoạn trước đây. Không chỉ coi năng suất là vấn đề trong doanh nghiệp mà khu vực các cơ quan nhà nước và người dân cần đổi mới tư duy, lối sinh hoạt theo hướng tích cực, từ đó năng suất làm việc sẽ được nâng lên.
Để cải thiện đóng góp của khu vực FDI tới năng suất lao động, TS. Lê Văn Hùng cho rằng, cần chú trọng chất lượng của dòng vốn FDI thu hút thay vì số lượng; tăng cường giám sát của cấp Trung ương và cấp địa phương trong thu hút vốn nước ngoài; đồng thời, thí điểm xây dựng vài khu công nghiệp sinh thái chế biến nông, lâm thủy sản. Ngoài ra, Việt Nam cần tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ và có những hành động cụ thể hơn.
Gợi ý giải pháp tăng năng suất lao động ở Việt Nam, PGS, TS. Nguyễn Đăng Minh, Phó Viện trưởng Viện quản trị kinh doanh cho rằng, cần áp dụng quản trị tinh gọn để hướng tới tăng năng suất lao động và phát triển bền vững. Việc áp dụng tinh gọn trong quản trị sẽ góp phần loại bỏ lãng phí trong sản xuất cũng như tăng cường các sáng kiến cải tiến sản xuất.
Đồng quan điểm trên, PGS, TS. Hồ Đình Bảo, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân gợi ý, cần tính toán lại năng suất lao động một cách chi tiết hơn trong nghiên cứu để đảm bảo tính khách quan, khoa học cũng như chứng minh rõ nét hơn xu hướng tăng trưởng nội ngành có những đóng góp trong thực tế như thế nào tới tăng năng suất lao động.
Bên cạnh đó, chuyên gia kinh tế Hồ Đình Bảo cũng cảnh báo về việc cổ phần hóa dù đây là chủ trương đúng đắn nhưng phải hết sức cân nhắc, thận trọng khi triển khai đồng thời phải chỉ ra được chiến lược thu hút FDI trong thời gian tới để tận dụng và phát huy hiệu quả thực sự của hoạt động này đối với nền kinh tế trong nước nói chung và tăng năng suất lao động nói riêng./.
Bình luận