Nhiều vấn đề đáng suy ngẫm khi nhìn lại kết quả tái cơ cấu nền kinh tế
Nhìn lại quá trình tái cơ cấu nền kinh tế thời gian qua
Tại Hội nghị “Đánh giá kết quả tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2020” tổ chức ngày 17/9, báo cáo của Viện nghiên cứu và Quản lý Trung ương chỉ rõ, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng với 3 trọng tâm là: tái cơ cấu đầu tư, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu thị trường tài trình trong giai đoạn 2016-2020 đã và đang thực hiện một cách tích cực và thực chất hơn.
Nhưng, các chương trình tái cơ cấu nhìn chung đang được tiến hành chậm hơn so với yêu cầu. Trong 3 trọng tâm tái cơ cấu, chỉ có việc cơ cấu lại các tổ chức tín dụng đạt được một số kết quả khá rõ nét trong xử lý nợ xấu.
Còn lại, cơ cấu lại đầu tư công và doanh nghiệp nhà nước chưa có tiến triển về chất mà vẫn thực hiện một cách hình thức hơn là triển khai các biện pháp mạnh mẽ thực chất nâng cao được hiệu quả đầu tư công và hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước.
Đồng thời, mô hình tăng trưởng của nền kinh tế về cơ bản chưa thay đổi. Tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào gia tăng vốn đầu tư, sử dụng lao động chi phí thấp và hoạt động kinh tế thâm dụng lao động; ở mức nhất định vẫn dựa vào xuất khẩu và dựa vào đầu tư nước ngoài ngày càng tăng. Nhân tố cho một cách thức tăng trưởng mới chưa xuất hiện.
Chúng ta “đột” chưa đủ, nên chưa thể “bứt phá”
Nhận xét về quá trình tái cơ cấu vừa qua, TS. Nguyễn Đình Cung, Giám đốc quốc gia Chương trình Aus4Reform cho biết, nhiều Nghị quyết, chính sách thúc đẩy cải cách cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cải thiện môi trường kinh doanh để có tăng trưởng cao và bền vững liên tục được đưa ra từ năm 2011.
Tuy nhiên, thực thi loạt văn bản chính sách này đều kém và hiệu quả thấp. Dường như lúc nào cũng bị “chạm trần” nên không thể giải quyết vấn đề, cứ tiến rồi lại phải lùi. “Vì vậy, mới có chuyện chúng ta phải ra nhiều Nghị quyết, chủ trương, kết luận về một chủ đề trong nhiều năm liền”, ông bình luận.
Một điểm sáng luôn được nhắc đến là cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện kinh doanh… Song, theo ông Cung, đây chỉ là phần ngọn mà không phải là gốc của vấn đề. Cho nên, có những khuyến nghị liên tục được “lặp đi lặp lại” từ 10-15 năm nay mà gốc của vấn đề vẫn chưa thể giải quyết.
“Chính phủ hô hào, chuyên gia kêu gọi các giải pháp đột phá để cải cách nhưng theo tôi, có thể công cụ “đột” không đúng, người “đột” qua yếu, lực “đột” không đủ nên mãi chúng ta không “bứt phá” được”, ông Cung mạnh mẽ chỉ rõ.
Còn theo bà Phạm Chi Lan, câu hỏi ở đây là tại sao chúng ta không tạo ra bước ngoặt trong thay đổi cơ cấu kinh tế dù Nghị quyết được ban hành rất đầy đủ. Bà Lan đặt vấn đề liệu rằng Nghị quyết được viết có quá xa thực tế nên không thể triển khai hay là do các cấp trung gian không muốn làm không muốn thực thi.
“Do đó, tiêu chí công khai, minh bạch là chưa đủ. Trách nhiệm giải trình phải được đề cao, phải có cá nhân, đơn vị, cơ quan đứng ra chịu trách nhiệm. Nếu không có giải pháp mạnh mẽ, 10 hay 20 năm nữa, những vấn đề này sẽ tiếp tục được thảo luận”, bà Lan nhấn mạnh.
Chúng ta buộc phải tạo ra bước ngoặt
Ông Cung cho rằng, cải cách kinh tế phải gắn liền với thể chế hành chính công và bộ máy quản lý. Trong đó, Nhà nước quản lý phải công khai, minh bạch theo tín hiệu thị trường và hướng tới mục đích chung, lợi ích chung của cộng đồng.
Để cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi thành công mô hình tăng trưởng, chắc chắn cần hệ thống đồng bộ, các giải pháp từ tổng thể đối với toàn nền kinh tế đến giải pháp đối với từng ngành, lĩnh vực và vùng, địa phương.
Còn theo ông Bùi Quang Tuấn, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi cần học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước như Hàn Quốc, Singapore hay Đài Loan...
“Học kinh nghiệm ở đây là xem cùng một lộ trình cải cách, họ thực hiện như thế nào, hiệu quả đến đâu. Việt Nam cứ nói là thực hiện, cứ nói chậm nhưng chậm thế nào không ai biết và không có gì để so sánh, chỉ chúng ta tự so với chính chúng ta thì không tiến bộ được”, ông Tuấn nói.
Nguyên nhân nghị quyết, chính sách chưa đi vào cuộc sống, theo ông Tuấn là do bộ máy cồng kềnh, trì trệ và kém hiệu quả. Không có chế tài, gắn trách nhiệm đối với người đứng đầu, điều này sẽ làm cho mọi ý tưởng của các chuyên gia bị thui chột, cố gắng của Chính phủ bị triệt tiêu, làm cho người thực hiện càng có cớ để không làm vì lợi ích của mình.
“Vì vậy, chúng ta buộc phải tạo ra bước ngoặt để đưa nền kinh tế tăng tốc và bứt phá trong tương lai”, ông Tuấn khẳng định.
Cần khắc phục tình trạng nền kinh tế phụ thuộc vào FDI
Ông Nguyễn Đình Cung cũng cho rằng, cần khắc phục tình trạng nền kinh tế đang ngày càng phụ thuộc vào doanh nghiệp FDI ở cả cấp độ địa phương, ngành và toàn nền kinh tế.
“Khắc phục điểm mất cân bằng này không có nghĩa là hạn chế, kìm hãm đầu tư nước ngoài mà làm cho khu vực kinh tế tư nhân trong nước phát triển với tốc độ nhanh hơn và đồng đều hơn so với hiện nay”, ông Cung nói.
Bên cạnh đó, cần khắc phục sự thiếu kết nối, bổ sung hợp lý giữa các thành phần kinh tế đồng thời làm cho kinh tế trong nước hướng ngoại nhiều hơn, mở rộng kinh doanh toàn cầu.
Một điểm yếu khác cần khắc phục là sự chia cắt cát cứ, thiếu kết nối, thiếu bổ sung hợp lý giữa các thành phần kinh tế, đồng thời làm cho khu vực kinh tế trong nước hướng ngoại nhiều hơn, mở rộng kinh doanh toàn cầu...
Định hướng tiếp theo trong cơ cấu lại và chuyển đổi mô hình tăng trưởng là phải làm cho cơ cấu kinh tế nói riêng và nền kinh tế trở nên năng động hơn. Trọng tâm là phải đảm bảo quyền và thực thi được trên thực tế các quyền cơ bản của người đầu tư kinh doanh... Trong đó, phải tạo được môi trường kinh doanh để các DN tư nhân Việt Nam sẵn sàng đầu tư mở rộng kinh doanh, môi trường kinh doanh và khung khổ pháp lý phải bảo đảm được các điều kiện cần thiết để họ thực hiện khát vọng được lớn lên.
Đồng tình với ông Cung, dựa trên số liệu do nghiên cứu của CIEM công bố, bà Lan nhận định, việc duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức tương đối cao nhưng chủ yếu nhờ khu vực FDI là vấn đề đáng suy ngẫm của nền kinh tế. Theo bà, người hưởng lợi trong xuất khẩu ngoài khu vực FDI (chiếm tới 70% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước) còn có các quốc gia mà Việt Nam nhập khẩu nguyên vật liệu để phục vụ quá trình gia công hàng hoá.
“Trong chuỗi giá trị xuất khẩu hàng của Việt Nam, người hưởng lợi còn có những quốc gia Việt Nam nhập khẩu nguyên liệu nhiều như Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN… Họ không bỏ vốn đề đầu tư vào Việt Nam, không chịu trách nhiệm với quốc gia nhập khẩu nhưng họ đang hưởng lợi. Trong khi, chúng ta chỉ xuất khẩu hộ từ trung gian, người đặt hàng hay người nhập khẩu. Đây chính là một gánh nặng của việc mở cửa thị trường”, bà Lan phân tích.
Hơn nữa, theo bà việc, trong nhiều năm qua, Mỹ luôn là thị trường xuất khẩu lớn nhất trong khi Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất đã cho thấy kết kết quả đáng suy ngẫm. Đó là chúng ta đã không có sự chuyển dịch lớn về cơ cấu kinh tế./.
Bình luận