Tác động của khủng hoảng Nga-Ucraina đến kinh tế thế giới và Việt Nam
Bài viết đồng thời khuyến nghị giải pháp để nền kinh tế Việt Nam vượt qua những tác động tiêu cực, tận dụng tốt các cơ hội trong bối cảnh mới. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
1. Vị thế kinh tế của Liên bang Nga trong kinh tế thế giới
Liên bang Nga (Nga) có quy mô kinh tế lớn, với GDP đạt 1.500 tỷ USD, đứng thứ 11 thế giới. Tính theo sức mua tương đương, kinh tế Nga đứng thứ 2 châu Âu và thứ 6 thế giới, với quy mô GDP đạt 4.021 tỷ USD; cung cấp 16,67% tổng lượng hàng hoá toàn cầu.
Nga rất giàu các loại tài nguyên thiên nhiên và năng lượng như dầu mỏ, khí đốt, than và quặng thép. Nga có nguồn năng lượng lớn nhất thế giới, chiếm tới 13% tổng trữ lượng dầu mỏ và 34% trữ lượng khí đốt thế giới đã được phát hiện; Nga sản xuất 10% lượng dầu toàn cầu, đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu dầu mỏ, đứng đầu thế giới về xuất khẩu khí đốt, cung cấp 40% lượng khí đốt cho châu Âu- đây là lợi thế cạnh tranh xuất khẩu rất lớn của Nga khi có thể xuất khẩu năng lượng liên tục với giá rẻ cho nhiều khách hàng lớn như châu Âu và Trung Quốc. Sản lượng điện của Nga chiếm 12% tổng sản lượng điện toàn cầu; ngành nông nghiệp phong phú; kinh tế Nga có khả năng hồi phục đáng kinh ngạc.
Nga cũng là nước xuất khẩu phân bón và lúa mỳ quan trọng. Nếu thị trường thế giới thiếu hụt hai mặt hàng này, có thể làm tăng giá lương thực toàn cầu, gây nên áp lực lạm phát thêm trầm trọng. Nga cũng là quốc gia sản xuất nickel và palladium hàng đầu; nước xuất khẩu thép và than đá lớn thứ 3, xuất khẩu gỗ lớn thứ 5, xuất khẩu ngũ cốc lớn nhất thế giới.
2. Trừng phạt kinh tế Nga, hệ luỵ đối với kinh tế thế giới
Theo Oxford Economics, các biện pháp trừng phạt của Mỹ và phương Tây với Nga có thể làm GDP của Nga sụt giảm 6%. Tuy vậy, các đòn trừng phạt kinh tế Nga gây cho kinh tế thế giới phải hứng chịu nhiều hệ luỵ khó có thể xử lý trong một sớm một chiều:
Khủng hoảng Nga-Ucraina và đứt gãy chuỗi cung ứng khiến giá lương thực thế giới tăng lên mức cao nhất trong 6 thập kỷ gần đây |
Thứ nhất, giá năng lượng và lạm phát cao, làm giảm hiệu quả chương trình phục hồi và phát triển kinh tế của các quốc gia. Giá dầu tăng cao nhất trong gần một thập kỷ qua sau các lệnh trừng phạt của Mỹ và phương Tây nhằm vào Nga. Ngày 4 tháng 3, giá dầu Brent đã tăng 7%, lên 118,11 USD/thùng - đây cũng là mức đóng cửa cao nhất kể từ tháng 2/2013; giá dầu thô Mỹ tăng thêm 7,4%, khép lại tuần đầy biến động ở mức 115,68 USD/thùng, khiến giá dầu thô đắt hơn gần 26% so với ngay trước thời điểm Nga tấn công Ucraina.
Gián đoạn nguồn cung khí đốt từ Nga khiến người dân châu Âu thiếu nhiên liệu để sưởi ấm và phí sưởi ấm tăng. Hiện nay, Nga cung cấp khoảng 40% lượng khí đốt tiêu thụ ở các nước châu Âu và 45% lượng khí đốt nhập khẩu trên thế giới, nếu Nga cắt khí đốt vào châu Âu, kinh tế các nước châu Âu sẽ bị thiệt hại, phải chi phí tốn kém hơn để tìm kiếm và nhập khẩu nguồn năng lượng thay thế. Giá khí đốt tự nhiên tại châu Âu đã tăng tới 62%. Giá khí đốt tăng kéo theo giá điện tăng, khiến chỉ số lạm phát của các nước châu Âu liên tục lập những đỉnh mới trong những tháng vừa qua. Theo dữ liệu từ Sàn giao dịch London ICE, ngày 7/3/2022, lần đầu tiên trong lịch sử giá khí đốt tại châu Âu lên tới 3.600 USD/1.000m3, phá kỷ lục mọi thời đại.
Lạm phát của khu vực đồng tiền chung châu Âu trong tháng 3/2022 tăng lên mức kỷ lục 7,5%, Ngân hàng Trung ương châu Âu hiện đang rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan khi phải đưa lạm phát về mức 2%, song các biện pháp siết chặt tiền tệ sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế hiện đang bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng Nga-Ucraina.
Giá năng lượng tăng cao sẽ tác động tiêu cực đến kinh tế thế giới, làm giảm hiệu quả của chương trình hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế mà các quốc gia đang nỗ lực thực hiện. Theo Goldman Sachs, nếu giá dầu tăng lên 200 USD/thùng, có thể khiến kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái.
Thứ hai, giá lương thực tăng cao, khủng hoảng thiếu lương thực cục bộ, gia tăng nghèo đói. Nga là nước xuất khẩu lúa mì lớn nhất thế giới, chiếm hơn 18% lượng hàng xuất khẩu quốc tế. Nga và Ucraina nắm giữ khoảng 30% nguồn cung lúa mì toàn cầu và được gọi là “giỏ bánh mỳ của thế giới”. Khủng hoảng Nga- Ucraina khiến xuất khẩu ngũ cốc của Nga giảm hơn một nửa do các tuyến vận tải biển và đường sông bị phong toả. Ngày 2 tháng 3 vừa qua, Hiệp hội ngũ cốc Nga thông báo, trước tình hình hiện nay xuất khẩu ngũ cốc của Nga đã giảm 60%, các chuyến tàu xuất khẩu ngũ cốc của Nga chỉ còn chở 40.000 tấn/ngày. Ucraina đã ngừng các chuyến tàu xuất khẩu ngũ cốc.
Khủng hoảng Nga-Ucraina và đứt gãy chuỗi cung ứng khiến giá lương thực thế giới tăng lên mức cao nhất trong 6 thập kỷ gần đây kể từ khi Tổ chức Lương Nông Liên hợp quốc (FAO) tính và công bố Chỉ số giá lương thực. Trong tháng 2/2022, Chỉ số giá lương thực của FAO đã đạt mức 140,7 điểm, cao hơn 3,9% so với tháng trước và cao hơn 24,1% so với cùng kỳ năm trước.
Thứ ba, thiếu hụt các kim loại công nghiệp thiết yếu. Khủng hoảng Nga-Ucraina tác động rất lớn đến giá kim loại công nghiệp như nickel, đồng, nhôm, palladium vì Nga và Ucraina là hai nhà cung cấp lớn. Do xung đột leo thang ở Ucraina và các lệnh trừng phạt Nga làm gián đoạn nguồn cung, ngày 8/3/2022 giá nickel - mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Nga tăng hơn 17%, ở mức 33.820 USD/tấn, sau khi đạt 34.120 USD/tấn - tăng gấp đôi, đạt mức cao nhất kể từ tháng 3/2008. Diễn tiến này được các chuyên gia trong cùng lĩnh vực gọi đó là mức giá “điên rồ”, điều chưa bao giờ xảy ra.
Giá nhôm tăng 2,1%, đạt mức 3.930 USD/tấn, trước đó giá nhôm đã tăng lên mức kỷ lục 4.000 USD/tấn. Giá Palladium - mặt hàng sử dụng trong điện thoại di động, hệ thống xả ô tô cũng tăng vọt. Sự thiếu hụt và tăng giá mạnh của các mặt hàng kim loại này sẽ ảnh hưởng đến nhiều ngành như xây dựng, bao bì, ô tô và pin xe điện. Trong thời gian đại dịch COVID-19, thế giới đã chứng kiến chỉ một gián đoạn nhỏ tại một khu vực cũng có thể gây ra thách thức lớn đối với kinh tế toàn cầu. Từ sự việc đơn lẻ như thiếu hụt chíp bán dẫn cũng dẫn đến những tác động bao trùm lên toàn bộ kinh tế thế giới. Vì vậy, việc Mỹ và phương Tây trừng phạt Nga đang và sẽ gây thiếu hụt cùng sự tăng giá nhanh chóng của nhiều kim loại công nghiệp quan trọng, càng làm kinh tế thế giới phải đối mặt với các khó khăn trầm trọng hơn.
Thứ tư, chuỗi cung ứng toàn cầu đối mặt với đứt gãy nghiêm trọng và chi phí tăng cao khi vận tải hàng không và đường biển bị tác động bởi các lệnh cấm không phận và đường biển giữa Nga với các nước phương Tây. Hiện nay, khủng hoảng Nga-Ucraina đã cắt đứt nhiều tuyến đường vận chuyển quan trọng, buộc các công ty vận tải phải tạm ngừng cung cấp dịch vụ, vận tải hàng hoá bị tắc nghẽn, ứ đọng hàng và đội phí, giá cước hàng không đang tăng vọt gây gián đoạn nghiêm trọng chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thứ năm, rối loạn hệ thống tài chính, tăng trưởng toàn cầu suy giảm. Các lệnh trừng phạt của Mỹ và phương Tây có thể gây nên tình trạng hỗn loạn tài chính ở Nga, làm chao đảo thị trường tài chính toàn cầu và đẩy giá năng lượng tăng cao. Việc loại Nga ra khỏi Hiệp hội Viễn thông Tài chính Liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT) chỉ làm tăng nặng hình phạt, chứ không phải là yếu tố thay đổi cục diện, nhưng sẽ khiến nhiều doanh nghiệp châu Âu gặp khó khăn trong hoạt động thanh toán khi giao dịch với Nga. Theo Thời báo New York, việc loại Nga ra khỏi SWIFT có thể làm suy yếu vai trò nguồn tiền dự trữ toàn cầu của đồng USD nếu Nga phát triển một hệ thống thay thế với các đối tác như Trung Quốc, đồng thời làm giảm vai trò thống trị của đồng USD trong thương mại toàn cầu.
Philip Lane, Trưởng nhóm kinh tế Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) khi trao đổi với các nhà hoạch định chính sách thừa nhận, xung đột Nga-Ucraina có thể khiến GDP năm 2022 của khu vực đồng tiền chung châu Âu giảm từ 0,3- 0,4%, từ mức dự báo tăng 4,3% vào tháng 11/2021 xuống mức 4%, ngay cả mức dự báo 4% cũng trở nên bấp bênh. ECB dự báo quý I/2022, kinh tế của cộng đồng chung châu Âu có mức tăng trưởng dương, tuy nhiên sang quý II sẽ không có tăng trưởng.
Tại Mỹ, do lạm phát tăng cao, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) quyết định tăng lãi suất 0,25% và sẽ tăng 7 lần trong năm 2022; dự báo lạm phát tháng 3 năm nay của Mỹ có thể trên 8%, khi đó FED có thể sẽ “mạnh tay” tăng 0,5% lãi suất trong kỳ điều hành tới. Trong bối cảnh này, FED dự báo kinh tế Mỹ tăng khoảng 2,8% khi đã tính đến ảnh hưởng của khủng hoảng Nga-Ucraina. Nếu giá xăng dầu và các kim loại công nghiệp không hạ nhiệt, Ngân hàng Goldman Sachs dự báo năm 2022 tăng trưởng kinh tế Mỹ khoảng 1,7% và có thể suy thoái trong năm 2023 sau khi đạt mức tăng kỷ lục 5,7% trong gần 40 năm qua.
Theo Chủ tịch Ngân hàng thế giới David Malpass, khủng hoảng Nga - Ucraina sẽ gây ra những tác động kinh tế-xã hội sâu rộng. Làn sóng tăng giá đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ chốt của Nga sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng lạm phát đang gia tăng và sản xuất ngừng trệ do đại dịch Covid-19, gây ảnh hưởng không nhỏ tới chiến lược, chính sách tiền tệ của các quốc gia.
Ngày 18/3/2022, Quỹ tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới và các chủ nợ khác trên toàn cầu đã đưa ra cảnh báo về tác động kinh tế sâu rộng từ căng thẳng giữa Nga - Ucraina. Theo đó, nền kinh tế toàn cầu sẽ chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này thông qua tăng trưởng giảm tốc, gián đoạn hoạt động thương mại và lạm phát tăng cao. Tổ chức OECD đã hạ mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ 4,5% xuống 3,5%; lạm phát toàn cầu tăng lên mức 7,5%; đặc biệt, khu vực đồng tiền chung châu Âu bị ảnh hưởng nặng nề bởi suy thoái kinh tế từ cuộc xung đột, với mức tăng trưởng thấp hơn 1,4 điểm phần trăm so với dự kiến chỉ dưới 3%.
Có thể thấy cuộc khủng hoảng Nga-Ucraina mang lại những rủi ro rất lớn cho kinh tế thế giới vẫn chưa phục hồi hoàn toàn sau cú sốc đại dịch. Giá cả tăng cao, sức ép lạm phát và chứng khoán sụt giảm là những vấn đề đang xảy ra trên toàn cầu. Hiện nay, đa số các quốc gia vẫn đang chật vật phục hồi sau 2 năm chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch. Do vậy, dư chấn từ cuộc khủng hoảng Nga- Ucraina sẽ làm trầm trọng hơn những “vết thương kinh tế” do đại dịch COVID-19 gây ra.
3. Trao đổi thương mại giữa Việt Nam với Nga và Ucraina
Cả Nga và Ucraina đều là những đối tác thương mại truyền thống và quan trọng của Việt Nam tại khu vực Á - Âu. Về kim ngạch thương mại, Nga xếp thứ nhất, Ucraina xếp thứ 6.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam với Nga và Ucraina năm 2021 vào khoảng 7,6 tỉ USD, chiếm 1,2% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước, trong đó kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và Nga đạt 7,14 tỉ USD tăng 25,9% so với năm 2020, đứng thứ 21 trong số các đối tác thương mại chính của Nga. Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Nga trong khu vực ASEAN, đối tác lớn thứ 5 trong các nền kinh tế APEC. Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Nga đạt 4,89 tỉ USD, tăng 20,9% so với năm 2020; kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam từ Nga đạt 2,25 tỷ USD, tăng 38,3%; Việt Nam xuất siêu sang Nga 2,64 tỷ USD.
Hiện nay, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Nga điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; hàng dệt may. Ba nhóm hàng này chiếm khoảng 57% kim ngạch xuất khẩu sang Nga, đây sẽ là các nhóm hàng bị tác động nhiều nhất trong thời gian tới. Kim ngạch xuất khẩu nhóm sản phẩm nông nghiệp và thuỷ sản chiếm khoảng 15,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, là nhóm sản phẩm cũng sẽ bị ảnh hưởng, mặc dù Nga không phải là thị trường lớn của các mặt hàng này.
Việt Nam xuất sang thị trường Nga và Ucraina lượng hàng hoá không lớn, nhưng có sự lan toả ra khu vực liên minh Á-Âu là thị trường Việt Nam đã ký FTA. Do đó, sự đứt gãy hoạt động thương mại sẽ tác động đến cả những thị trường liên quan khác.
Việt Nam nhập khẩu từ Nga và Ucraina chủ yếu là lúa mỳ, hải sản, phân bón, gỗ và sản phẩm gỗ; kim ngạch nhập khẩu gỗ trực tiếp từ Nga không lớn chỉ khoảng 2% tổng kim ngạch nhập khẩu gỗ. Tuy vậy Việt Nam nhập khẩu gỗ khá lớn từ châu Âu với nguyên liệu gỗ của Nga.
4. Tác động đến kinh tế Việt Nam
Nhỉn rộng ra, Việt Nam có cơ hội hưởng lợi từ việc EU có thể dời hoạt động kinh doanh tại khu vực bất ổn địa chính trị, đến nơi có chính sách hợp lý và chính trị ổn định. Vì vậy, thời gian tới, dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có thể sẽ chuyển hướng vào khu vực như Đông Nam Á, Đông Bắc Á. |
Kinh tế nước ta có độ mở lớn; tham gia nhiều hiệp định thương mại đa phương và song phương, hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới; nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu cho sản xuất chiếm tỷ lệ cao, khi kinh tế thế giới suy giảm và lạm phát cao, đặc biệt kinh tế của các đối tác quan trọng với Việt Nam suy giảm sâu sẽ tác động trực tiếp và gián tiếp khá mạnh đến đà phục hồi và phát triển kinh tế nước ta. Một số tác động được nhận diện như sau:
Thiếu hụt nguồn cung cho nền kinh tế: đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu do đại dịch COVID-19 gây ra chưa được khắc phục thì khủng hoảng Nga-Ucraina càng làm trầm trọng hơn tình trạng thiếu hụt nguồn cung cho nền kinh tế. Khủng hoảng gây ảnh hưởng nặng nề tới nguồn cung nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất của nước ta, tác động trực tiếp đến lạm phát và tăng trưởng. Bên cạnh đó, khi chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt đối với kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng điện, điện tử vì Nga và Ucraina là 2 nhà cung cấp lớn những vật liệu quan trọng để sản xuất các nguyên phụ liệu cấu thành các thiết bị điện tử như nickel, palladium, nên bất kỳ hạn chế hay gián đoạn nào về nguồn cung hàng hóa Nga đều tác động dây chuyền, gây gián đoạn chuỗi sản xuất thiết bị điện tử.
Trong những năm gần đây, nước ta nhập siêu khoảng 6 tỷ USD đối với mặt hàng xăng dầu. Khi giá xăng dầu tăng cao, giá trị nhập siêu mặt hàng này cũng sẽ tăng.
Khủng hoảng Nga-Ucraina cùng với cấm vận sẽ khiến việc giao - nhận hàng xuất, nhập khẩu của Việt Nam với Nga bị chậm, chi phí vận chuyển tăng cao, làm tăng chi phí hàng hóa. Ngoài ra, khi đồng Rub mất giá cũng sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu và ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc Nga bị loại khỏi hệ thống của SWIFT đã và đang có các tác động nhất định tới hoạt động kinh tế và giao thương của Việt Nam. Trước mắt sẽ không ảnh hưởng nhiều tới kim ngạch xuất khẩu nhưng về lâu dài, điều này sẽ tác động tới tâm lý và giao dịch thương mại của doanh nghiệp. các khách hàng có hoạt động đầu tư, giao thương với Nga, trong đó có cả Việt Nam sẽ chịu tác động nhất định.
Gia tăng áp lực lạm phát đối với nền kinh tế: Khủng hoảng Nga-Ucraina là một trong những nguyên nhân chính làm gia tăng thêm giá hàng hoá trên thị trường thế giới. Sản lượng sản xuất và thị phần xuất khẩu một số mặt hàng nguyên, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và tiêu dùng như: xăng dầu, khí đốt, lúa mì, nhôm, nickel, ngô… của Nga và Ucraina rất lớn, vì vậy nếu căng thẳng kéo dài có thể gây khó khăn về nguồn cung các loại nguyên, nhiên vật liệu này trong thời gian tới, ảnh hưởng tới quá trình phục hồi và phát triển kinh tế nước ta.
Chỉ riêng mặt hàng xăng dầu trong nước bình quân quý I/2022 tăng 48,81% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp tới 1,76 điểm phần trăm trong mức lạm phát bình quân 1,92% của 3 tháng đầu năm nay; giá gas trong nước biến động theo giá xăng dầu và giá gas thế giới, bình quân quý I/2022 giá gas tăng 21,04% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI chung tăng 0,31 điểm phần trăm.
Bên cạnh xăng dầu và gas, giá các loại nông sản như: lương thực, bông; thức ăn chăn nuôi; phân bón; kim loại công nghiệp; sắt thép xây dựng tăng cao sẽ tạo áp lực rất lớn đến mục tiêu kiểm soát lạm phát năm nay của nước ta.
Áp lực lạm phát năm nay của nước ta chịu tác động khá lớn do nhập khẩu lạm phát từ bên ngoài và lạm phát chi phí đẩy. Giá nhập khẩu một số nguyên, nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất trong nước quý I/2022 so với cùng kỳ năm trước tăng cao như: giá nhập khẩu sắt thép tăng 43,87%; giá xăng dầu tăng 40,44%; giá thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 27,73%.
Tác động tới đầu tư của Nga và các đối tác liên quan tại Việt Nam: Nga có nhiều dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, chủ yếu trong lĩnh vực dầu khí và điện. Chẳng hạn dự án nhiệt điện Long Phú 1 do Power Machines (PM) của Nga làm tổng thầu bị chậm kế hoạch 2 năm do công ty PM bị liệt vào danh sách cấm vận của Mỹ; hay như dự án điện gió ngoài khơi Vĩnh Phong với liên doanh Zarubezhneft JSC của Nga và DEME Concessions của Bỉ, đã ký biên bản ghi nhớ từ tháng 4/2021.
Du lịch quốc tế đến Việt Nam phục hồi chậm: Năm 2019, trước khi xảy ra dịch COVID-19, Việt Nam đón khoảng 4,5 triệu lượt khách Nga, chiếm 25% tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam. Trung bình một du khách Nga chi tiêu ở Việt Nam khoảng 1.600 USD cho một chuyến thăm, cao hơn mức trung bình 900 USD của khách du lịch quốc tế. Hiện nay, do đồng Rub mất giá, lạm phát tăng cao, kinh tế Nga đang đối mặt với khủng hoảng nghiêm trọng sẽ ảnh hưởng tới quyết định đi du lịch của người Nga, bên cạnh đó các hãng hàng không Nga không được phép đưa công dân của họ ra nước ngoài để đi nghỉ. Chỉ riêng khách Nga đã làm thất thu cho lĩnh vực du lịch nước ta khoảng trên 7 tỷ USD.
Chiến sự xảy ra làm đứt gãy việc đi du lịch của người Nga. Với Việt Nam, khách du lịch Nga suy giảm có thể làm thất thu cho lĩnh vực du lịch trên 7 tỷ USD |
Do khủng hoảng Nga-Ucraina, để đảm bảo an ninh, an toàn hàng không các hãng hàng không phải bay vòng, khiến thời gian bay và giá vé tăng cao cũng là trở ngại và ảnh hưởng không nhỏ tới du lịch Việt Nam. Đồng Rub mất giá, lạm phát tăng cao, nền kinh tế Nga đang đối mặt với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng sẽ ảnh hưởng tới quyết định đi du lịch của người Nga.
Nhìn chung, kinh tế nước ta không tránh khỏi những hệ luỵ từ khủng hoảng Nga-Ucraina. Bên cạnh tác động trước mắt, như giá xăng dầu và nhiều mặt hàng thiết yếu tăng cao, Việt Nam sẽ phải tìm cách đối phó với những hệ luỵ lâu dài do Mỹ, phương Tây và nhiều nước trên thế giới áp dụng các biện pháp trừng phạt Nga và do chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy.
Cơ hội cho Việt Nam
Bên cạnh một số bất lợi, cuộc khủng hoảng vẫn mang cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam khi doanh nghiệp nước ngoài rời đi, bỏ lại những thị phần có thể tiếp cận.
Khi căng thẳng Nga và phương Tây nổ ra, thị trường tại các nước này tiềm ẩn rủi ro, nhiều nhà đầu tư sẽ đẩy nhanh hơn quá trình đa dạng hóa, chuyển dịch chuỗi cung ứng, dòng vốn đầu tư, tìm kiếm địa chỉ an toàn hơn. Đây là điểm thuận lợi cho Việt Nam với tình hình chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng khá, môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng được cải thiện.
Bên cạnh đó, khi các doanh nghiệp nước ngoài rời khỏi thị trường Nga, bỏ lại thị phần để doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận. Việt Nam có cơ hội tốt để tăng cường thâm nhập thị trường EU, chủ yếu trong lĩnh vực nông phẩm và lương thực thay thế hàng từ Nga và Ucraina.
Nhìn rộng hơn, Việt Nam có cơ hội hưởng lợi từ việc EU có thể dời hoạt động kinh doanh tại khu vực bất ổn địa chính trị, đến nơi có chính sách hợp lý và chính trị ổn định. Vì vậy, thời gian tới, dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có thể sẽ chuyển hướng vào khu vực như Đông Nam Á, Đông Bắc Á.
5. Chúng ta cần làm gì?
Để ứng phó với khủng hoảng Ucraina, cộng đồng doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường và nguồn cung, đồng tiền thanh toán... |
Trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ không nhất thiết phải ban hành chính sách trung và dài hạn cho 2 năm, 5 năm, mà chính sách, giải pháp cần thiết thực, đảm bảo minh bạch, gắn với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống... TS. Nguyễn Bích Lâm |
Trong bối cảnh những bất định trên thế giới diễn ra với tần suất dày hơn và khó lường, Việt Nam cần có chiến lược xây dựng thể chế kinh tế, nâng cao khả năng chống chịu và tính tự chủ của nền kinh tế. Đặc biệt, cần xây dựng Chiến lược an ninh năng lượng, đảm bảo đủ năng lượng cho nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, sử dụng tối đa năng lượng tái tạo và năng lượng sạch, thân thiện với môi trường. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội cần bổ sung quan điểm và các giải pháp nâng cao tính tự chủ, khả năng chống chịu và quản trị rủi ro.
Chính phủ, các hiệp hội doanh nghiệp và chính cộng đồng doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ về luật cấm vận của Mỹ, đồng thời tiến hành thảo luận ngay với đối tác Mỹ để tránh bị chế tài khi vi phạm các biện pháp cấm vận đối với Nga. Đồng thời, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành tiếp tục cải cách hành chính, triển khai các giải pháp tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Ngân hàng Nhà nước khẩn trương hướng dẫn doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu các hình thức thanh toán và biện pháp phòng ngừa rủi ro trong thanh toán khi ký kết hợp đồng để tháo gỡ khó khăn về thanh toán do các ngân hàng Nga bị loại khỏi hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu hình thành các kênh chi trả thanh toán với các ngân hàng và doanh nghiệp Nga, cũng như qua các phương tiện chưa bị cấm vận để giúp doanh nghiệp trong nước tiếp tục giao dịch với đối tác Nga một cách hợp pháp. Nghiên cứu khả năng kinh doanh bằng đồng Rub, hạn chế sử dụng ngoại tệ để tránh biến động tỷ giá, áp dụng các phương thức thanh toán bù trừ bằng đồng Rub, hay đổi hàng với Nga để hạn chế việc chuyển tiền qua ngân hàng.
Bộ Công Thương cần theo dõi nắm bắt, cập nhật thường xuyên tình hình căng thẳng về chính trị, ngoại giao, sự chuyển hướng trong chính sách kinh tế, thương mại, đầu tư của các nước, cung cấp thông tin kịp thời cho các bộ, ngành có liên quan để có giải pháp xử lý. Đồng thời, Bộ Công Thương cần theo dõi sát biến động cung cầu các mặt hàng chiến lược nhạy cảm, kịp thời có giải pháp điều hành phù hợp, tận dụng cơ hội về giá để sản xuất, xuất khẩu và đảm bảo cung cầu cho thị trường trong nước; đẩy mạnh khai thác hiệu quả các FTA đã ký với các quốc gia, lãnh thổ, đặc biệt là FTA với Liên minh kinh tế Á-Âu; các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đa dạng hoá thị trường xuất, nhập khẩu, đảm bảo luồng hàng hoá xuất nhập khẩu được thông suốt. Đẩy mạnh hợp tác, kết nối giữa các nền kinh tế.
Để ứng phó với khủng hoảng Ucraina, cộng đồng doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường và nguồn cung, đồng tiền thanh toán; chủ động đàm phán với các đối tác về phương án vận chuyển hàng hóa, phương thức kinh doanh; đồng thời rà soát lại hợp đồng và hồ sơ pháp lý bảo đảm chủ động trong trường hợp xảy ra tranh chấp. Các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu lưu ý áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong thanh toán khi ký kết và thực hiện hợp đồng.
Tình hình chính trị, kinh tế thế giới diễn biến mau lẹ, khó lường, các biện pháp trừng phạt và trả đũa đang diễn ra khốc liệt chưa từng có, vì vậy những chính sách và giải pháp phải nhanh, điều chỉnh ngay khi có vấn đề phát sinh. Trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ không nhất thiết phải ban hành chính sách trung và dài hạn cho 2 năm, 5 năm, mà chính sách, giải pháp cần thiết thực, đảm bảo minh bạch, gắn với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống./.
Bình luận